tiêu đề Nhãn
- BIÊN KHẢO
- CÂU ĐỐI
- CỔ THI
- GIA CHÁNH
- GIẢI TRÍ
- HÌNH ẢNH HỘI NGỘ
- HÌNH ẢNH NAY
- HÌNH ẢNH XƯA
- HỘI HỌA
- KHOA HỌC
- LỊCH SỬ
- LỜI HAY Ý ĐẸP
- LƯU NIỆM
- SỨC KHOẺ
- SƯU TẦM
- THƠ
- THƠ CẢM TÁC
- THƠ DỊCH
- THƠ DIỄN NGÂM
- THƠ NHẠC
- THƠ PHỔ NHẠC
- THƠ SƯU TẦM
- THƠ TRANH
- THƠ TRANH NGHỆ SĨ
- TIN BUỒN
- TIN VUI
- VĂN
- VŨ HỐI THƯ HỌA
- VƯỜN THƠ VIÊN NGOẠI
- XƯỚNG HỌA
- YOUTUBE
Thứ Hai, 16 tháng 12, 2013
Mơ Ước Đêm Giáng Sinh
Giáng Sinh đến Em có cùng ai xem Lễ
Hay mơ màng chỉ nhớ đến Người xưa
Sánh cùng ai giữa mưa phùn lất phất
Tựa vào nhau khi gió bấc tràn về
Trời trở lạnh hay lòng Anh đang lạnh
Mơ cùng Em sóng bước đón Noel
Thật trọn vẹn mừng Đêm Thánh an lành
Niềm vui ấy biết bao giờ có được
Anh vẫn biết tình Anh trong huyền hoặc
Nhưng làm sao kềm chế trái tim yêu
Sóng tình dâng chỉ hướng mỗi một chiều
Anh cứ mặc cho tiếng lòng trôi dạt
Noel đến ước mơ kia cũng đến
Bao năm rồi cũng chỉ một ước mơ
Chúa trên cao ban phước kẻ dại khờ
Cho Con được thấy mơ thành hiện thực.
Quên Đi
Mùa Giáng Sinh Nhớ Mẹ
Lại một mùa đông, Thiên Chúa Giáng sinh
con trang trí nhà, giăng đèn rực rở
Chúa có về ngang cho con hỏi nhỏ
mẹ con về trời, Chúa đón người chưa?
Hỏa táng mẹ rồi, cát bụi hư không
tất cả cửa về trời đều mở rộng
ý nguyện mẹ, quy y quỳ chân Phật
lỡ lạc qua nước trời, Chúa mở vòng tay
Giáng sinh này, Tuyết sẽ trải thảm êm
vân thạch làm hang, mây thành máng cỏ
mẹ tung kinh Pháp Hoa, xen kinh kính mừng Thiên Chúa
mẹ lần chuổi Bồ đề cùng lần hạt Mân Côi
Một bên vai Chúa, Phật một bên vai
hai vai mẹ mang tâm lành, phước thiện
con chỉ ngước lên trời cao cầu nguyện
thoát khỏi kiếp người,cầu mẹ được bình yên
Chỉ còn mấy tuần là chúa giáng Sinh
phép lạ con mong nhìn mẹ cười nồng ấm
Giáng Sinh tuyết rơi ngập trời hoa trắng
mẹ hiền dịu, nhân từ phổ độ Quan Âm
Con cứ tin là mẹ ngự trên cao
không thắc mắc cõi trời có phân chia giai cấp
nếu có chút đỉnh, mẹ con mình đã từng chịu đựng
kinh tế mới thiên đường chắc chắn nhẹ nhàng hơn
Mẹ hãy yên lòng, dù con có nhố nhăng
tâm con tối, nhưng còn phần tỏa sáng
con vẫn để dành, dăm điều bác ái
tạ ân trên, con báo hiếu mẹ hiền
Vĩnh Trinh
Tản Mạn Về Mỹ Thuật Vĩnh Long
Hơn hai mươi năm qua, kể từ sau khi đất nước đổi mới, đường lối “DÂN
TỘC-HIỆN ĐẠI”(...) vẫn luôn là hướng đi tích
cực, sáng suốt, giữ gìn được bản sắc trong xu hướng hội nhập toàn cầu cho đội
ngũ Họa sĩ, Điêu khắc gia tỉnh Vĩnh Long. Các đề tài phong phú đề cập đến mọi
khía cạnh của đời sống từ truyền thống đến đương đại đã được triển khai để các
nghệ sĩ thể hiện qua các tác phẩm của mình.
Vào năm 1988, chính các họa sĩ Vĩnh Long đã đi tiên phong trong việc
mở cuộc Triển lãm Mỹ thuật đầu tiên trên toàn quốc tại Sài Gòn,
mở đầu phong trào Triển lãm Mỹ thuật cho
các tỉnh phía Nam. Và trong suốt một thời gian dài, Mỹ thuật Vĩnh Long luôn
đứng ở vị trí quán quân với lực lượng Họa sĩ, Điêu khắc gia hùng hậu cùng với
những tác phẩm hội họa, tranh, tượng, phù điêu… Thế nhưng, vào thời điểm hiện
tại, Mỹ thuật Vĩnh Long đã có dấu hiệu chựng lại. Dường như các nghệ sĩ chỉ
dừng chân ở cách trang trí miên man, sơ sài, thể hiện những tình cảm cá nhân vụn
vặt và ít có tác phẩm hoành tráng, lớn lao về nội dung, hình tượng.
Nguyên nhân vì sao Mỹ thuật Vĩnh Long bị rơi vào tình trạng lội
ngược dòng như vậy? Làm thế nào để thoát ra khỏi tình trạng luẩn quẩn ở ngả ba
bế tắc, thiếu định hướng như hiện nay?
Chúng ta đang ở vào thời kỳ mà nghệ thuật đương đại, hay còn gọi là
nghệ thuật Hậu Môđéc đang phát triển rộng khắp toàn cầu. Xu hướng Nghệ thuật
Không gian, bao gồm Sắp đặt, Biến đổi, Trình diễn, Sáng tạo Không gian bằng mọi
phương tiện chất liệu và xu hướng High-tech áp dụng kỹ thuật số, màn hình, đèn
chiếu… vào các trò chơi nghệ thuật thị giác mới lạ, đặc trưng của xã hội trí
tuệ và khoa học công nghệ trình độ cao hầu như không còn xa lạ với công chúng
thưởng ngoạn. Trong khi đó, đại bộ phận
các nghệ sĩ trong ngành Mỹ thuật Vĩnh Long vẫn sáng tác theo cách suy nghĩ cho
rằng sự quay về cảm thức dân gian, khai thác bản sắc dân tộc từ nghệ thuật cổ
truyền chính là cách thể hiện tinh thần “DÂN TỘC-HIỆN ĐẠI”(!) Lại có một số vị
chối từ các công thức và lối vẽ chính xác theo tinh thần khoa học của trường
lớp vốn không hợp với mỹ cảm tượng trưng ước lệ của người Việt Nam.
Thêm nữa, sự bắt chước, đi tắt vội vàng, tránh né kỹ thuật và lao động, với suy
nghĩ, mơ hồ nông cạn cho rằng “DÂN GIAN CHÍNH LÀ HIỆN ĐẠI”; hoặc với hy vọng
theo tấm gương của một số họa sĩ trong nước đã thành danh nối nhanh tức thì “CÁI
DÂN TỘC VỚI CÁI HIỆN ĐẠI” mà không nghĩ rằng thành quả của các họa sĩ ấy chính
là cả một quá trình làm việc, nghiên cứu miệt mài cộng với tài năng và sự hiểu
biết sâu sắc về truyền thống!
Vấn đề tiếp theo là sự thiếu hụt trầm trọng đội ngũ kế thừa trong
ngành Mỹ thuật. Ở Vĩnh Long, các nghệ sĩ trẻ có năng khiếu về Mỹ thuật, Điêu
khắc đa phần có gốc gác xuất thân là giáo viên đã tốt nghiệp từ Trường Cao đẳng
Sư phạm Vĩnh Long hoặc Đại học Đồng Tháp ngành Họa. Vì được đào tạo để giảng
dạy, nên họ chỉ được học một chút Hội họa, một chút Điêu khắc, một chút Lịch sử
Mỹ học… Và kết quả là, có một thầy giáo dạy môn Mỹ thuật tại một trường Phổ
thông Cơ sở đã tuyên bố hùng hồn với các
học trò của mình rằng Họa sư nổi tiếng Salvado Dali là họa sĩ vẽ theo lối Cổ
điển(!)
Thực tế, NGHỆ THUẬT VÀ CÁI ĐẸP luôn không ổn định mà thay đổi cùng
với cuộc sống và nhu cầu tinh thần của con người, thời đại. Các giá trị của
nghệ thuật cũng có nhiều cấp độ khác nhau, tùy vào hàm lượng nội dung, ý tưởng
và tính đại diện của nó. Nghệ thuật “DÂN TỘC-HIỆN ĐẠI” phải là nghệ thuật nhập
cuộc với cuộc sống, mang thông điệp và nội dung hiện thực cao. Làm nghệ thuật
là để lên tiếng, bày tỏ tư tưởng, trí tuệ và thái độ cá nhân trước các vấn đề
của cuộc sống. Có như thế, các nghệ sĩ trong ngành Mỹ thuật Vĩnh Long mới có cơ
hội thoát khỏi sự trì trệ, bế tắc như hiện nay.
Bài viết trên đây chỉ là ý kiến của một cá nhân, được viết ra có
tính cách để độc giả cùng tham khảo. Nó không nhằm mục đích chê bai, đả kích
bất cứ ai!
(Tháng 12-2011)
Tín Đức
Trả Lời Về Một Tỉnh Lẻ
Em ngỡ tôi đi mòn phố tỉnh lẻ
Từng góc đường, từng chiếc áo thư sinh
Ừ thì tôi có vào ngỏ cuộc tình
Vì ngỏ cụt nên chẳng còn lối thoát
Ngôi trường nhỏ với mây bay trắng toát
Buổi đi về người làm nắng cũng say
Mặt trời cao, so sánh thế nào đây
Đành thúc thủ trong nỗi niềm câm nín
Gót giày tôi có mòn trên lộ tỉnh
Nhưng chỉ là con hãn mã, mắt che
Chỉ một phương nào biết được lối về
Đành ngả quỵ trên chiến trường áo trắng
Mộ hồn tôi qua bao mùa mưa nắng
Giữa phố buồn, tỉnh lẻ, đã rêu phong
Có đôi khi về viếng một góc lòng
Thăm bia đá, thăm mái trường quá khứ
Nếu ngưòi xưa, cũng về ngôi mộ cũ
Cứ tự hào, một thuở có cây si
Cuộc nhân sinh nếu còn chút từ bi
Xin đốt nén nhang tình trong tâm tưởng
Vĩnh long đó lắm sông chia nhiều hướng
Thuyền cuộc đời, người đổ bến nơi đâu
Tôi chở theo một di ảnh ban đầu
Chỉ trả lời về mây, nếu em hỏi
Hoài Tử
Một Mình - Nhạc Thanh Tùng - Ca Sĩ Mỹ Linh
Gia dình đang tràn đầy hạnh phúc, bỗng người vợ đột ngột ra đi,để lại con nhỏ và khồ đau cho người chồng. Đêm về nhớ vợ cùng những kỷ niệm bình dị nhưng thấm thía cho người chồng ,thật tội và khổ cho cảnh này
Nhạc Sĩ: Thanh Tùng
Ca Sĩ Mỹ Linh
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình
Ca Sĩ Mỹ Linh
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình
Nắng Đẹp Hồn Em May Áo Mới
Nắng đẹp hồn em may áo mới
Thơm màu lụa mỏng của quê ta
Thấy em mái tóc đùa con bướm
Thơ thẩn như ngày xưa rất xa
Nắng đẹp hồn em may áo mới
Nhả trong quần lảnh Mỹ A trơn
Tôi thương Châu Đốc chiều lưu xứ
Những cụm mây buồn quyện núi Sam
Nắng đẹp hồn em may áo mới
Rất Tây rất Nhật rất Hồng Kông
Chừng đôi năm nữa tôi nào thấy
Chiếc áo dài xinh dạo phố phường
Và cái tình yêu có đổi thay?
Bạo tàn bình thản lúc chia tay
Như tôi mất nước rồi quên nước
Như thể sinh ra tại đất này
Lâm Hảo Dũng
Hỏi Người
Người làm thơ ngắt hoa
Khóc một bài tứ tuyệt
Thơ vàng một khúc ca
Hát nguôi lòng thương
tiếc
Người trồng hoa cho
thơ
Ngủ theo hồn cỏ dại
Hoa úa tự bao giờ
Tiếc một thời con gái
Hỏi người như hỏi
ta
Sầu đời khô mấy nhánh
Hỏi người vai nhỏ
ta
Thắp tình bao ngọn
nến
Một lần đâu dễ qua
Mắt cười xa ngàn dặm
Một lần chợt hiểu
ra
Chút tình sao đằm
thắm
Người làm thơ tặng
hoa
Gieo mấy mùa hạt nhớ
Nở vàng góc vườn ta
Chim oanh về mấy
thuở
Lâm Hảo Khôi
( 29-11-13)
Đón Giáng Sinh Này Nhớ Giáng Sinh Xưa
Cha Peter Dương Bá Hoạt và cô Cecilia từ Gia Nghĩa, Đài Loan
CHÚC MỪNG GIÁNG SINH
Đến Quý Cha, Quý Tu Sĩ, giáo dân.Đặc biệt gởi lời chúc đến Quý Bạn cùng lớp Xuân Bích Vĩnh Long 1972
Một vài tấm thiệp Giáng Sinh hiếm hoi tại Đại Chủng Viện Vĩnh Long cách đây hơn 40 năm. Những tấm thiệp này chắc chắn gây nhiều ngạc nhiên cho các tác giả nghiệp dư thời ấy.
Các tác giả những tấm thiệp này nay là những "Mundi Pater", tạm dịch là các "Bố đời".
Chúng con cám ơn Cha, cô Cecilia và Quán Ven Đường còn giữ lại chút kỷ niệm ngày xưa. Những tấm ảnh này sẽ đi mãi vào lòng mọi người và không quên những ngày tháng đẹp, êm đềm của một thời đã qua
Chúng con cám ơn Cha, cô Cecilia và Quán Ven Đường còn giữ lại chút kỷ niệm ngày xưa. Những tấm ảnh này sẽ đi mãi vào lòng mọi người và không quên những ngày tháng đẹp, êm đềm của một thời đã qua
Đón Giáng Sinh này nhớ Giáng Sinh xưa
Bên máng cỏ tại trại Tỵ nạn Galang, Nam Dương.
Sau 6 ngày lênh đênh, 1 tháng tạm trú tại 1 hòn đảo nhỏ rồi mới đến trại Tỵ Nạn.
4 tháng sau mừng lễ Giáng Sinh.
Mừng Giáng Sinh năm 1 tại Úc Đại Lợi
Bên hang đá tại Đại Chủng Viện Đài Bắc.
Thời gian này học tiếng Phổ Thông tại trường Đại Học Công Giáo (đối diện ĐCV).
Cha Peter Dương giúp 1 Cha Việt Nam làm máng cỏ này cho Đại Chủng Viện Đài Bắc.
Học tiếng Phổ thông năm thứ 2 và cũng giúp một Cha làm máng cỏ cho ĐCV
LM Peter Dương Bá Hoạt
Cô Cecilia Huang (Thư ký của Cha và Thư Ký Tòa Giám Mục Giáo Phận Đài Trung)
Cô Cecilia Huang (Thư ký của Cha và Thư Ký Tòa Giám Mục Giáo Phận Đài Trung)
Gia Nghĩa, Đài Loan
Chủ Nhật, 15 tháng 12, 2013
Mùa Yêu Thương Và Thứ Tha
Tôi không biết vì sao từ lúc chưa hiểu nhiều nhưng tôi thường nhìn về hướng nhà Thờ, đôi khi thấy các Cha mặc áo dòng, chắp tay thong thả đi trong sân nhà thờ, lòng tôn kính và ngưỡng mộ, nhìn các Sơ hiền hậu nhân từ tôi thương tha thiết, tôi thích nghe tiếng chuông nhà Thờ đổ lòng thanh thản theo từng hồi….vang…vang….vọng xa.. xa và chìm dần trong tĩnh lặng…. rồi tưởng tượng một nơi nào đó đẹp thiệt đẹp và bông hoa nở rộ để tiếng chuông ấy đáp xuống …vui… vui…ghê lắm.
Thời gian sau ở đầu làng đi về hướng Chùa Miên có thêm một nhà Thờ nhỏ, vào những mùa Noel, nửa đêm rước đèn từ nhà Thờ lớn đi theo đường lộ đến nhà thờ nhỏ, kiệu hoa, đèn ngôi sao đủ màu rất đẹp, nhộn nhịp, các giáo dân cất tiếng hát vang, tôi cùng con nít trong làng chạy theo hưởng ứng, cũng được phát cho một lồng đèn ngôi sao. Vui và thích thú vô cùng.
Có một năm vì chen chân đi bị sụp ổ gà lọt vào vũng nước đứt quai dép… niềm vui với ngày Hội Lễ làm tôi quên đi cái chân cà nhắc của mình, và nhất là bên cạnh tôi có nhỏ bạn xách dép giùm…. hi hi… Sáng hôm sao nhỏ lén ba má mang tặng tôi đôi guốc màu, mới “cáo cạnh” món quà Noel đầu tiên trong đời của nhỏ bạn tặng tôi.. Mỗi là tên nhỏ, con gái của chú Năm Sua có tiệm tạp hóa khá lớn trong làng.
Trong đời chỉ có được 3 mùa Giáng Sinh hồn nhiên, vui vẻ, rồi chiến tranh đến. Ngày Chúa ra đời tôi chỉ được đứng bên này dòng sông để nghe Thánh ca, xem rước Lễ trong khuôn viên nhà Thờ mà thôi. Năm Mậu Thân thì tuổi thơ tôi cũng mất, ngôi làng cháy ra tro, tôi theo gia đình ra đi và mang theo cả ký ức rời làng Trung Ngãi từ đó.
Sau biến cố 1975, rời Việt Nam đến Úc, niềm ước mơ tuổi thơ đã đưa tôi về với niềm tin Tôn giáo, tôi đến bên Chúa với tất cả lòng tôn kính sâu xa, qua Cha tôi đã được Chúa nâng đỡ chở che, tôi may mắn có các con cũng chọn Chúa làm niềm tin trong cuộc sống. Khi các con còn nhỏ tôi cũng được sống lại tuổi thơ cùng các con trong những mùa Giáng Sinh. Mỗi năm trước Giáng sinh một tuần hầu như các trường Tiểu Học đều tổ chức Christmas Carol, mặc dù rất bận với công việc nhưng tôi luôn luôn lấy ngày bệnh hay nghỉ phép để cùng tham gia với nhà trường, cùng họp sức may những bộ trang phục cho con để cùng trình diễn đêm Lễ Hội Giáng Sinh.
Có một năm vì chen chân đi bị sụp ổ gà lọt vào vũng nước đứt quai dép… niềm vui với ngày Hội Lễ làm tôi quên đi cái chân cà nhắc của mình, và nhất là bên cạnh tôi có nhỏ bạn xách dép giùm…. hi hi… Sáng hôm sao nhỏ lén ba má mang tặng tôi đôi guốc màu, mới “cáo cạnh” món quà Noel đầu tiên trong đời của nhỏ bạn tặng tôi.. Mỗi là tên nhỏ, con gái của chú Năm Sua có tiệm tạp hóa khá lớn trong làng.
Trong đời chỉ có được 3 mùa Giáng Sinh hồn nhiên, vui vẻ, rồi chiến tranh đến. Ngày Chúa ra đời tôi chỉ được đứng bên này dòng sông để nghe Thánh ca, xem rước Lễ trong khuôn viên nhà Thờ mà thôi. Năm Mậu Thân thì tuổi thơ tôi cũng mất, ngôi làng cháy ra tro, tôi theo gia đình ra đi và mang theo cả ký ức rời làng Trung Ngãi từ đó.
Sau biến cố 1975, rời Việt Nam đến Úc, niềm ước mơ tuổi thơ đã đưa tôi về với niềm tin Tôn giáo, tôi đến bên Chúa với tất cả lòng tôn kính sâu xa, qua Cha tôi đã được Chúa nâng đỡ chở che, tôi may mắn có các con cũng chọn Chúa làm niềm tin trong cuộc sống. Khi các con còn nhỏ tôi cũng được sống lại tuổi thơ cùng các con trong những mùa Giáng Sinh. Mỗi năm trước Giáng sinh một tuần hầu như các trường Tiểu Học đều tổ chức Christmas Carol, mặc dù rất bận với công việc nhưng tôi luôn luôn lấy ngày bệnh hay nghỉ phép để cùng tham gia với nhà trường, cùng họp sức may những bộ trang phục cho con để cùng trình diễn đêm Lễ Hội Giáng Sinh.
Tôi đã được hạnh phúc tràn đầy của tuổi thơ, được sự thương yêu ủng hộ của Cha Mẹ, những điều cần thiết ấy tôi nghĩ các con tôi cũng rất mong mỏi thiết tha. Các trẻ con rất vui khi tay trong tay cùng cha mẹ đến công viên để dự Lễ, khi các em trình diễn những bài hát hay vở kịch, ánh mắt ngời sáng, nụ cười tươi đang hướng tìm ba mẹ mình, trong sự tự tin và hãnh diện. Đẹp làm sao kỷ niệm tuổi thơ và quý làm sao trong một quốc gia đầy lòng nhân bản và tự do. May mắn thay quê hương thứ hai các con tôi đang hưởng và hướng tới tương lai. Hy vọng trẻ con được mãi mãi hạnh phúc và toại nguyện ước mơ … mơ những gì mà Ông Già Noel sẽ mang đến, cho vào những đôi vớ treo ở lò sưởi hay cửa phòng ngủ của các em.
Từ khi các con lớn lên rời bậc Tiểu Học, tôi không còn tham dự những ngày Christmas Carol nữa. Một thời tuổi thơ của các con cũng qua mau.
Đêm 15/12/2012, cậu em tôi mời các dì đi xem Lễ hội Noel, vì đêm nay con của cậu em trình diễn Violin, chị em tôi háo hức đi, đến công viên là cả rừng người. Nhìn những phụ huynh lăn xăn trang phục cho con, nhìn niềm vui của vợ chồng cậu em, các cháu, tôi nhớ ngày xưa của tôi và của hai con tôi da diết.
Mọi người trải khăn bày thức ăn, ngồi nghe nhạc do các em học sinh các trường trình diễn, cũng có những ca sĩ giúp vui. Ban tổ chức phát tập nhạc cho từng gia đình để cùng nhau hát chung.Đêm tối dần lấp lánh những ánh nến lung linh ...chuyển động theo điệu nhạc đầy công viên.
Năm nay thời đại tân tiến, ông Già Noel không đi xe ngựa mà Ông lái Mô tô, phóng vèo trên đồi cỏ ngoài hàng rào trật tự. Trong rào các em cùng hát đón chào ông, không khí tưng bừng náo nhiệt.
Cuối cùng là màn bắn pháo bông, ban nhạc vẫn tiếp tục chơi nhạc, đèn vụt tắt, trên nền trời tiếng đì đùng vang vọng, pháo hoa rực rỡ, trên nền trời cao từng vòm pháo hoa chụp xuống và phụp tắt, cứ như thế liên tục đủ màu hoà cùng với tiếng la cổ võ của mọi người. Khi tiếng nổ lớn nhất cả vùng trời hoa từ trên không rơi …rơi…lan tỏa ….và sà xuống người xem có thể đưa tay đón… nhưng rồi vụt tắt.. lòng tôi chợt buồn không biết vì sao…
Từ khi các con lớn lên rời bậc Tiểu Học, tôi không còn tham dự những ngày Christmas Carol nữa. Một thời tuổi thơ của các con cũng qua mau.
Đêm 15/12/2012, cậu em tôi mời các dì đi xem Lễ hội Noel, vì đêm nay con của cậu em trình diễn Violin, chị em tôi háo hức đi, đến công viên là cả rừng người. Nhìn những phụ huynh lăn xăn trang phục cho con, nhìn niềm vui của vợ chồng cậu em, các cháu, tôi nhớ ngày xưa của tôi và của hai con tôi da diết.
Mọi người trải khăn bày thức ăn, ngồi nghe nhạc do các em học sinh các trường trình diễn, cũng có những ca sĩ giúp vui. Ban tổ chức phát tập nhạc cho từng gia đình để cùng nhau hát chung.Đêm tối dần lấp lánh những ánh nến lung linh ...chuyển động theo điệu nhạc đầy công viên.
Năm nay thời đại tân tiến, ông Già Noel không đi xe ngựa mà Ông lái Mô tô, phóng vèo trên đồi cỏ ngoài hàng rào trật tự. Trong rào các em cùng hát đón chào ông, không khí tưng bừng náo nhiệt.
Cuối cùng là màn bắn pháo bông, ban nhạc vẫn tiếp tục chơi nhạc, đèn vụt tắt, trên nền trời tiếng đì đùng vang vọng, pháo hoa rực rỡ, trên nền trời cao từng vòm pháo hoa chụp xuống và phụp tắt, cứ như thế liên tục đủ màu hoà cùng với tiếng la cổ võ của mọi người. Khi tiếng nổ lớn nhất cả vùng trời hoa từ trên không rơi …rơi…lan tỏa ….và sà xuống người xem có thể đưa tay đón… nhưng rồi vụt tắt.. lòng tôi chợt buồn không biết vì sao…
Vì sao?
Vì hình ảnh những pháo hoa rực rỡ, đẹp muôn màu lung linh xinh xắn như 20 em học sinh và 6 cô giáo đã vụt tắt ở bầu trời ở Connecticut hôm qua 14/12/2012. Cùng với hai mẹ con của người gây ra thảm nạn trên. Sao các em không được thưởng thức những tràng pháo hoa bắn ra mà lại những viên đạn oan nghiệt bắn vào các em trong Mùa yêu thương này? Bà Hiệu Trưởng, Phó Hiệu Trưởng các Cô giáo đã hy sinh vì các em, sống cho nghề và chết cũng cho nghề, cao quý thay trách nhiệm và bổn phận của người lương tâm như từ mẫu. Hình ảnh này cứ lẩn quẩn trong tâm trí tôi, nhìn những bậc cha mẹ, các học sinh còn lại, hốt hoảng, kinh hoàng, tuyệt vọng, tôi tự đặt mình vào vị trí họ xót xa và đau đớn.
Vì hình ảnh những pháo hoa rực rỡ, đẹp muôn màu lung linh xinh xắn như 20 em học sinh và 6 cô giáo đã vụt tắt ở bầu trời ở Connecticut hôm qua 14/12/2012. Cùng với hai mẹ con của người gây ra thảm nạn trên. Sao các em không được thưởng thức những tràng pháo hoa bắn ra mà lại những viên đạn oan nghiệt bắn vào các em trong Mùa yêu thương này? Bà Hiệu Trưởng, Phó Hiệu Trưởng các Cô giáo đã hy sinh vì các em, sống cho nghề và chết cũng cho nghề, cao quý thay trách nhiệm và bổn phận của người lương tâm như từ mẫu. Hình ảnh này cứ lẩn quẩn trong tâm trí tôi, nhìn những bậc cha mẹ, các học sinh còn lại, hốt hoảng, kinh hoàng, tuyệt vọng, tôi tự đặt mình vào vị trí họ xót xa và đau đớn.
Của những người dù mới biết tên em,
Cũng rưng rưng mắt lệ trước ánh đèn,
Lòng héo hắt theo màn đêm trĩu nặng."
(Những Gói Quà Không Được Mở -Trần Văn Lương- Cali)
Biết trách ai đây?
Một tuần trôi qua, sáng nay hình ảnh các em trên trang báo tôi không giấu được giọt nước mắt mình, thực ra tôi không kịp giấu thì đúng hơn, tôi bật khóc..khóc trong nghẹn ngào trước những thực khách ở quán cà phê.
Giờ đây chúng ta phải làm gì?
Tôi chỉ biết nguyện cầu cho thân nhân của các em được tâm an bình, nghị lực vượt qua hoàn cảnh, tinh thần lắng dịụ nỗi thương tâm. Cầu nguyện cho các em ngủ ngon, đừng lo sợ đừng kinh hãi vì bên cạnh các em luôn luôn có 6 người Mẹ nhân từ kề cận, chăm sóc, chở che và ru các em giấc ngủ yên bình, sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa.
Các cô và các em ơi! Đêm nay Chúa sẽ giáng trần, các em hãy thứ tha những tội lỗi cho người đã bắt các em rời xa Cha Mẹ, anh chị em, người thân và bạn bè của các em đi nhé!
Nguyện cầu các cô và các em sẽ không buồn, không cô đơn, không lẻ loi! Đúng vậy, vì có biết bao nhiêu người, hầu như toàn thế giới, đang đồng hành với gia đình các cô và các em, luôn nhớ thương, chờ đón các cô và em về trong đêm Chúa Giáng trần.
Các cô và các em hãy chấp đôi cánh Thiên Thần trắng trong cùng Chúa Giáng trần, hãy cất tiếng hát thanh thoát, an hòa đến gia đình cùng mọi nhà để Chào Mừng Một Ngày Mới Thương Yêu Thứ Tha Và Vĩnh Cửu.
Xin thắp ngọn nến hồng trong Thánh Lễ đêm nay, ngọn nến ấm áp tình người, tưởng nhớ và nguyện cầu cho những Thiên Thần thương yêu luôn bình an nơi Nước Chúa.
Chúng ta hãy cùng chúc bình an cho nhau!
Amen!
Xin thắp ngọn nến hồng trong Thánh Lễ đêm nay, ngọn nến ấm áp tình người, tưởng nhớ và nguyện cầu cho những Thiên Thần thương yêu luôn bình an nơi Nước Chúa.
Chúng ta hãy cùng chúc bình an cho nhau!
Amen!
Kim Oanh
Melbourne Mùa Noel 24/12/2012
Nhớ lại vụ thảm sát tại trường Tiểu Học SANDY HOOK ở CONNECTICUT. giết chết 20 Trẻ em và 6 người lớn, ngày 14 Tháng 12 Năm 2012.Những Đêm Giáng - Sinh
1-
Hay đêm nao ánh sáng ngợp kinh thành
Chân rộn bước trong lòng đời mở hội. (1)
Tôi hoà vào giòng người đổ xuống
khu vực Vương-Cung-Thánh-Đường. Đi để mà đi.Đi một mình. Cô đơn! Gần triệu
con người đi trong đêm Giáng-sinh. Từ khắp ngả Đô-thành tràn về trung tâm thành
phố. Người đi như những giòng thác, trên những con đường
Hồng-thập-tự, Thống-nhất, Hai-Bà-Trưng, Duy-Tân, Tự-do, Lê-Lợi,Nguyễn-Huệ, và bờ
sông...Đến gần 12 giờ đêm, nghe tiếng chuông ngân vang dồn dập đổ hồi, tất cả dồn
về khu nhà thờ lớn chuẩn bị lễ nửa đêm.
Tôi không phải là giáo dân, nhưng cũng
cố chen chân lọt vào, đứng ở một góc tối, xem lễ. Giàn đại phong cầm vang lên
nhạc thánh ca, ru hồn tôi vào thế giới thiên thần, nơi ấy tất cả mọi người mọi
vật đều thanh khiết, an hoà, thương yêu nhau. Ave Maria, bản nhạc của Schubert mà
tôi hằng ưa thích từ lâu và đã có lần thử dạo trên phím vĩ cầm, giéo giắt đưa
tôi đến với Đức Bà Maria, như hình ảnh người mẹ hiền của nhân loại. Hồi đó tôi
chưa được biết nhiều về Đức Phật Bà Quán-Thế-Âm. Ngày nay, hơn một nửa thế kỷ đã
qua, có những 4 hình ảnh bà mẹ đang ngự trong tâm hồn tôi: Mẹ ruột sinh ra
tôi, Mẹ hiền Quán-Thế-Âm, Mẹ Maria và Mẹ Việt-Nam.(1).
Riêng nói về bà mẹ
Việt-Nam, hồi đó tôi đang ở vào cái tuổi vừa ham học vừa ham chơi nên cũng chưa
ý thức sâu xa về sự hiện diện của Mẹ. Trong lúc tôi đang mải mê hoà theo giòng
người vui hưởng đêm Giáng-sinh, chắc Mẹ Việt-Nam đang vừa vui vừa khóc thầm. Mẹ
vui vì khung cảnh yên bình ở những thành phố lớn. Mẹ buồn vì trong cùng thời
gian này, ở những vùng hoả tuyến rải rác trên khắp lãnh thổ, thì dân chúng đang
phải gánh chịu những tang thương và đôi cánh mỏng của Nữ-vương
Hoà-bình đang âm thầm rỉ máu.
2-
Rồi tối mai trong Đêm Thánh Vô CùngLàm tài xế cho Còm đi dự lễ.
-Anh trở lại hơn hai năm tù ngục
Bọn chúng mình tay đã trắng tay.(2)
Tôi lái xe cho Nàng đi dự lễ tại
nguyện-đường Regina Pacis, trên đường Nguyễn-Thông. Dìu nhau đi trong Đêm Thánh
Vô Cùng là một kỷ niệm đẹp tuyệt vời! Hai đứa ngồi vào hàng ghế gần cuối. Cũng
nhạc thánh ca ngân vang, cùng tiếng đập nhè nhẹ của tim đã đưa chúng tôi bay
trong vòm trời yêu thương, thánh thiện. Chính từ ngôi giáo đường nhỏ bé này và
toà nhà trụ sở của một hội-đoàn ở ngay bên kia đường, vào thời gian 3 năm sau biến
cố 1975, mà chúng tôi đã có cơ duyên tái ngộ. Trải qua cả một thời gian dài
chung dưới mái một ngôi trường cổ kính ở đường Duy-Tân và tại căn phòng khách ở
nhà một người bạn trong nhóm học tập, rồi mỗi người một ngả xa nhau gần 3 năm
trời_ do cuộc đổi đời khốn khổ_, được gặp nhau trở lại thì giống như 2 kẻ vừa
thoát khỏi chết đuối nên đã ước nguyện cùng nhau đi nốt đoạn đường đời gai góc
trước mắt.
Từ đó, tôi đã có nhiều dịp tháp tùng Nàng đi lễ ở các nhà thờ
Kỳ-Đồng, Đồng-Tiến, Bắc-Hà, Ngã Sáu, Huyện-Sĩ, Tân-Định. Khung cảnh Đêm Giáng-sinh ở
nơi nào cũng đẹp, nhất là ở Kỳ-Đồng. Những dây đèn giăng mắc từ dưới đất lên
đỉnh cao vút của cá giáo đường như đưa chúng tôi bay lên cao mãi tận bàu
trời thăm thẳm. Hang đá Bê-lem huyền ảo vô cùng: "Đây hang Bê-lem, nơi Chúa
giáng sinh ra đời, Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá trên máng lừa..." Lời ca
ấm áp, ngọt ngào vang lên trong đêm Đông lạnh lẽo như sưởi ấm lòng tôi và
người bạn đời trong viễn tượng một gia đình hạnh phúc, dưới sự che chở của đấng
Thiêng Liêng.
3-
Nay còn đâu những Đêm Thánh Vô Cùng
Của một thời đã trôi vào dĩ vãng.(3)
Tôi
và gia đình quây quần trong phòng khách vào nửa đêm lễ Giáng-sinh trên quê
hương mới: Hoa-Kỳ. Christmas-tree cao đụng trần nhà lấp lánh hàng trăm ngọn đèn
màu. Trên đỉnh ngọn cây, có tượng một thiên thần dương đôi cánh mỏng. Những tấm
thiệp sáng bóng treo lủng lẳng trên các nhánh cây. Dưới chân cây xếp đầy những
hộp quà bọc trong những giấy hoa sặc sỡ. Ngoài kia tuyết trắng xoá bao chùm
ngàn cây nội cỏ. Nhìn qua lớp kính cửa sổ biết bên ngoài chắc trời lạnh lắm, trái
với không khí ấm áp của hơi nóng toả ra từ ngọn lửa hồng đang bừng cháy trong
lò sưởi và từ hệ thống heat trong nhà. Hình ảnh những đêm Giáng-sinh quá khứ
trên quê hương VN dồn dập hiện về.
Nơi đây, trên vùng đất mới, nỗi nhớ khôn cùng
làm khắc khoải con tim của một kẻ đã phải xa dời Tổ-quốc. Còn đâu khung cảnh
những đêm Giáng-sinh cùng hàng triệu người lũ lượt đi trên đường phố Sài-Gòn. Ở
đây hiếm có nhà thờ làm lễ đúng nửa đêm, giáo dân thường đi lễ sớm vào buổi tối
và trở về nhà dự tiệc Giáng-sinh kéo dài tới quá nửa đêm. Vào thuở vừa vượt qua
ngưỡng cửa học sinh/sinh viên,tôi đã cùng nhóm bạn trẻ nam lẫn nữ rong xe chạy
trên đường phố trong nửa đêm về sáng, sau khi rời khỏi một bal-party. Thật là thú
vị bởi vì khí mát của đêm sắp tàn làm hai vòng tay đan kết nhau hơn để tìm hơi
ấm. Về sau, khi đã có gia đình thì người ngồi ghế sau trên xe máy là người bạn
trăm năm với một hài nhi bé bỏng xen vào giữa. Có khi chúng tôi đi dự lễ vào nửa
đêm, có khi chờ tới xuất lễ buổi sáng.
Tôi vẫn luôn luôn đi bên cạnh người bạn
đời đển dự thánh lễ tại một trong những nhà thờ quen thuộc. Cuộc sống hàng ngay
vô cùng chật vật, nhưng lời ca trầm bổng hay giéo giắt của Silent Night, Ave
Maria, Holly Night... vẫn là những sợi dây thiêng liêng giăng ra từ bàn tay của
đấng tối cao, ràng buộc một kẻ ngoại đạo, là tôi, với Nàng, vốn là một con chiên
sùng tín. Và đêm nay, khung cảnh Đêm Thánh Vô Cùng đã hoàn toàn thay đổi. Kỷ
niệm xưa đang ập đển, nhưng rồi cũng phải qua đi. Những hình ảnh đẹp của đêm
Giáng-sinh xa xưa hồi sinh trong khoảnh khắc, pha trộn với những hình ảnh tưởng
tượng đang diễn ra tại quê nhà. Cả hai, kỷ niệm ngày xưa và hình ảnh quê hương
ngày nay, ập đển ngự trị tâm hồn tôi, nhưng rồi cũng phải bay đi để được thay thế
bằng hình ảnh đẹp hiện tại đang diễn ra ngay trong căn nhà nho nhỏ, ấm cúng trên
đất nước mà tôi đang định cư này. Lòng tôi tràn trề hạnh phúc qua âm hưởng
thánh ca phát ra từ máy nhạc và trong khung cảnh nồng nàn, ấm cúng của một mái
ấm gia đình:
Vòng tay ôm chặt người thân,
đêm nay là những Thiên Thần trong tôi.
Ôi sao hạnh phúc
tuyệt vời,
ước mong ấp ủ cả đời yêu thương ! (3)
* Chú thích.
Trích từ Thơ/Tuỳ bút của HồngNguyên&NL:
(1)-Mộng Đẹp Mùa Hoa,58+Chuyện kể về 4 bà mẹ,2012 ,
(2)-Tuân lệnh,78+Gặp
lại Anh,77 , (3-)Giáng-sinh hải ngoại, 2012
ChinhNguyen/H.N.T./H.N.
GA/USA Dec/2012-13
Từ Thức, Ngày Về
Sáng nay soi mặt trong dòng nước,
Râu tóc bơ phờ chẳng giống ai,
Có phải ta từ bao năm trước,
Từ Thức trở về từ Thiên Thai !?!
Ba năm lạc lối Đào Nguyên,
Trần gian trở bước không quên đường về.
Phải đây là ngọn tiểu khê,
Phải đây dấu vết cây lê trước nhà ?
Phải đây vườn rau, vườn cà,
Phải đây ao cá sau nhà rửa chân ?
Phải đây bếp lửa ấm nồng,
Phải đây gương lược, chăn giường buồng khuê,
Phải đây xiêm áo ủ ê,
Màn che trướng rũ bốn bề tường loan,
Đâu rồi ngừời ngọc đoan trang,
Đâu rồi cha mẹ, anh em, xa gần,
Bà con lối xóm, người thân,
Sao giờ vắng lạnh, âm thầm nơi nơi !!!
" Rằng thưa : đã trăm năm rồi,
Truyền rằng cụ Tổ mấy đời ngày xưa,
Một hôm lạc bước tình cờ,
Ra đi, đi mãi không về đã lâu,
Cháu con tứ tán còn đâu ?
Hỏi rằng Ông ở nơi đâu đến tìm ???"
Ta là... chẳng lẽ ta là...
Là ai ? ai biết bây giờ là ai
Từ Thức - Đào Nguyên - Thiên Thai
Là mộng ? là thực ? là ai ? ai là !?!
Nam Chi
NY 2013
Vùi Chôn Cuộc Tình
Chạnh buồn đọc lại thơ người
Bao lời dịu ngọt êm đưa
thuở nào
Chìm trong sóng cuộn mưa
gào
Tình ta vẫn mãi bên nhau
trọn đời
Êm trao bằng tiếng ru
hời
Vỗ về giấc mộng thắm
khơi ân tình
Những mong tình của
chúng mình
Đừng bao giờ tắt lịm
tình đôi ta
Cuộc đời chìm nổi phong
ba
Sắt son nguyện giữ tình
ta vẹn toàn
Dù cho cuộc sống mỏi mòn
Thân tàn đời úa mãi hoài
trong nhau
Bây giờ tình đã xanh xao
Khi lòng người sớm hư hao
đổi dời
Ái ân thuở ấy bây giờ
Chỉ còn lại nỗi hững hờ xót
xa
Còn đâu tình lỡ phôi pha
Lặng chìm theo gió trôi
xa cuối trời
Đành thôi góp nhặt tình
rơi
Gom làm kỷ niệm vùi chôn
cuộc tình.
12/2013
Thiên
Thu
Giáng Sinh An Lành
Líu lo chim hót trên cành
Giáng Sinh đâu cũng an lành tình thương
Gái trai muôn thuở yêu đương
Hoan ca hạnh phúc quê hương thanh bình
Giáng Sinh ta chúc muôn phương
Cùng nhau chia sẻ tình thương dắt dìu
Đêm đông bên ánh lửa khêu
Rượu nồng tình ấm thương yêu tràn đầy
Lục Lạc
Thứ Bảy, 14 tháng 12, 2013
Giáng Sinh Trung Phần
Năm này nét giống những năm qua
Cả không gian lạnh nắng vàng pha
Trăng già lặng đỉnh đầu non Việt
Quê hương còn khổ miệt Trường Sơn
Nước dâng cao từng cơn sóng dữ
Mây đen trời sấm chớp chữ tang
Dìm dân Nam chôn giấc thiên đàng
Thoi thóp thở mơ màng Chúa chuộc
Giáng Sinh ơi ! Vào cuộc cứu đời
Khua chuông mới động trời Nam cũ
Lũ lượt về hạnh phúc mang theo
Chút hơi Chúa lời xưa gieo mộng
Đêm nay mấy....lang thang trống vắng
Đợi Chúa về nghe đắng tâm cang
Phương trời Tây chắc Chúa rộn ràng
Quên cứu chuộc dân Nam cùn khổ
Còn chỗ nào thay Giáng Sinh sau!
Lê Kim Hiệp
4-12-2010
Đêm Này Nhớ Đêm Xưa
Một chút gió về đêm thật lạnh
Mắt buồn vời vợi hướng trời xa
Sài Gòn ai hiểu lòng cô quạnh
Của một người đi vẫn nhớ nhà..!
Đêm nay đường phố đèn hanh sáng
Xanh đỏ đủ màu trông thật xinh
Dân chúng hân hoan mừng ngày Chúa
Giáng xuống trần gian ướp mộng lành…
Riêng ta lòng vẫn hoài năm cũ
Em của Sài Gòn, em năm xưa
Đêm Noel làm sao không nhớ
Em bên ta- Tình đủ ấm chưa ?!
Honda lạng lách theo đường phố
Lê Lợi đây và Tự Do đây
Khu giáo đường bên nhà bưu điện
Đông đặc người đi khói quyện bay
Ôm sát vòng eo, tay búp măng
Ta nghe máu ngược, nhịp tim tràn
Thoảng hương thơm tóc em ve vuốt
Chúa sáng danh- Tình ta sáng trăng!!
Tay nắm bàn tay mát tuổi xuân
Lưng anh em tựa ấm toàn thân
Phố phường đâu chỉ riêng hai đứa
Những cặp tình nhân đứng rất gần…
Đêm nay cũng lại đêm mừng Chúa
Cảnh cũ, người xưa nhớ buốt lòng
Cô bé mắt nâu thời đi học
Bây giờ đò lỡ đã sang sông…
Đêm đông xứ người trời buốt giá
Phố phường giăng mắc lắm đèn hoa
Ta bước đi- Tâm lòng xa lạ
Em có còn không dáng thướt tha…
Thy Lan Thảo
Mắt buồn vời vợi hướng trời xa
Sài Gòn ai hiểu lòng cô quạnh
Của một người đi vẫn nhớ nhà..!
Đêm nay đường phố đèn hanh sáng
Xanh đỏ đủ màu trông thật xinh
Dân chúng hân hoan mừng ngày Chúa
Giáng xuống trần gian ướp mộng lành…
Riêng ta lòng vẫn hoài năm cũ
Em của Sài Gòn, em năm xưa
Đêm Noel làm sao không nhớ
Em bên ta- Tình đủ ấm chưa ?!
Honda lạng lách theo đường phố
Lê Lợi đây và Tự Do đây
Khu giáo đường bên nhà bưu điện
Đông đặc người đi khói quyện bay
Ôm sát vòng eo, tay búp măng
Ta nghe máu ngược, nhịp tim tràn
Thoảng hương thơm tóc em ve vuốt
Chúa sáng danh- Tình ta sáng trăng!!
Tay nắm bàn tay mát tuổi xuân
Lưng anh em tựa ấm toàn thân
Phố phường đâu chỉ riêng hai đứa
Những cặp tình nhân đứng rất gần…
Đêm nay cũng lại đêm mừng Chúa
Cảnh cũ, người xưa nhớ buốt lòng
Cô bé mắt nâu thời đi học
Bây giờ đò lỡ đã sang sông…
Đêm đông xứ người trời buốt giá
Phố phường giăng mắc lắm đèn hoa
Ta bước đi- Tâm lòng xa lạ
Em có còn không dáng thướt tha…
Thy Lan Thảo
Vườn Nhãn Xưa
Ta về mắc võng trong vườn nhãn,
Chạnh nhớ những ngày tuổi ấu thơ,
Gần ba mươi năm nơi đất khách,
Nhớ hoài tình đẹp tuổi mong chờ.
Có ai sống giữa thời ly loạn
Không có một lần lỗi hẹn nhau?
Ta đi giữa chiến trường bom đạn,
Em trong khung cửa ngẩn ngơ sầu..
Triền miên khói lửa nơi tiền tuyến,
Mang cả nỗi niềm nhớ hậu phương,
Yêu nhau chỉ biết tình sao đẹp,
Nào biết tương lai lắm đoạn trường.
Ta về cưới vội người yêu dấu,
Từ đó em làm chinh phụ buồn,
Em ơi! Ta quyết dâng xương máu,
Xả thân nầy bảo vệ quê hương.
Trăng soi thềm vắng ngày ly biệt,
Cuối tháng Tư buồn chia cách nhau,
Ðâu biết lần đi là vĩnh quyết,
Em giữa trùng vây của khổ đau.
Ta về mắc võng trong vườn nhãn
Nắng ở trên cao soi lá cành,
Trời xanh bát ngát và mây trắng,
Nhớ quá ! Mà thôi! Dạ cũng đành!
Vĩnh Trinh
Thứ Sáu, 13 tháng 12, 2013
Thơ Diễn Ngâm:Hoài Hương - Thơ Yên Dạ Thảo - Hương Nam Diễn Ngâm
Bao lần về lòng mãi còn vương
Nhớ tình ruột thịt yêu thương
Trường xưa bạn cũ năm trường từ ly
Em nhớ quá mùa thi trưa nắng
Tiếng ve sầu xa vắng nhớ nhung
Nhớ người, nhớ cảnh… khôn cùng
Nhớ từng kỷ niệm đã chung vui buồn
Em lại nhớ Sài gòn phố thị
Cảnh về đêm xa xí phù hoa
Người mua kẻ bán trước nhà
Dập dìu xe cộ ngày qua lại ngày
Và em nhớ sớm mai mưa hạ
Về ghé thăm anh cả miệt vườn
Cơm trưa đạm bạc rau tương
Gạo thô, canh ngọt mướp hương … ấm lòng
Giờ chỉ còn hoài thương niệm nhớ
Quê hương nay cách trở ngàn trùng
Chia nhau một mảnh tình chung
Phương trời viễn xứ… cố hương vọng về
Yên Dạ Thảo
Tuổi Thơ Tôi Theo Thời Gian - Phần 1
Mấy
hôm nay trời mát có hơi ngay ngáy lạnh, thói thường tôi hay uống café
sáng pha phin tại nhà, ngồi xếp bằng dưới nền, chỉ hút 1 điếu thuốc duy
nhất, rồi uống trà, kế châm điếu thuốc duy nhất (thứ hai..v..v..)ôi thôi
dặn lòng bỏ thuốc lá, khổ nổi ngón tay cứ nhón điếu thuốc, nên môi phải
bập bập…
Nhà tôi ven sông Long Hồ mặt trước là đường, vì là sông nên ngoài cầu
Thiềng Đức, còn có đò sang sông những hai bến, kẻ từ cầu về sông cái
(sông Tiền), ngày xưa bến đò gần nhà học sinh sang sông phải trả tiền (5
cắc), còn đò cận sông cái sang chợ học sinh đi không phải trả tiền.
Tôi ở gần bến đò nhỏ, thuở trước do ông Tư lường chèo, là chiếc
tam-bản, ông vốn người khách trú, vợ Việt rặc, từ Tam Bình ,chèo về chợ
Vĩnh Long, trọn gia đình sống trên chiếc ghe lường nhỏ, mui là mái lá
nẹp tre, đậu tạm nơi đất gia đình bác Sáu Minh, bác Sáu thương tình, cho
tạm trú trên đất nhà rồi hành nghề đưa đò ngang nuôi trọn một vợ bảy
con. Khách sang sông thường là xóm riềng quen thân, trong số đó có tui,
nên khách sang sông cùng ông lái đò chuyện trò rôm rả cho đến khi cập
bến bên kia, khách trở về cũng vậy. Ngày trước mùa nước nổi, sông chảy
xiết, khách đông, thuyền nhích từng chút một, do vậy trước mũi thuyền có
thêm chiếc dầm, ai ngồi phía đầu hoặc kế đó cầm dầm bơi tiếp, nay cũng
dòng sông này mùa nước nổi rất cao, mà sông chảy không nhanh, ngẫm nghĩ
vỡ lẽ, thì ra lúc xưa không có bờ bao trong vườn ruộng nên khi mùa nước
nổi, nước tràn lên ruông đồng, thành thử sông chảy xiết, ngày nay bờ bao
cũng là đường giao thông nên nước dù lên vẫn êm ả, tà tà mà trôi không
việc gì phài vội!!!
Hồi bác đưa đò đến mãi sau nầy, tôi chưa lần nào sang sông bằng thuyền
mới cả, cứ chiếc cũ kéo lên bờ, thì chiếc cũ khác được đấp vá kéo xuống
sông làm nhiệm vụ tiếp, đến cặp chèo cũng vậy, khuyết mòn sâu rồi gãy,
bác cưa chấp nối lại, nơi mối nối được gia cố thêm miếng nhôm quấn vòng,
đóng đinh chằn chịt, quay chèo bên này là dây, bên kia là mảnh lưới
chày rách ai đó quăng bỏ, lây lất nuôi gia đình bốn mùa lênh đênh mãi
Bác thường nói với tôi, khi tôi đủ lớn, giọng lơ lớ (bác chờ ăn đám
cưới của cháu với cháu Mẫn rồi bác mới về Tàu), Mẫn là con lớn của bác
Sáu Minh, sau 75 một thời gian, Mẫn định cư ở Úc cùng hai đứa em là,
Nguyệt, Bé Năm, Mẫn lập gia đình với người bạn đời Philippine tại Úc,
còn tôi sau khi nội tôi mất được 5 năm tôi cũng tự lập gia đình, thành
thử bác Tư không thể ăn đám cưới được đứa nào cả, thời gian sau đó bác
cũng thôi chèo đò để yên giấc ngàn thu, còn lại trong tôi lời hứa xưa
cùng tất cả tình thương mà bác đã bỏ lại.
Hồi trước, sang sông lên đò, bên phải là những chiếc xe nấu nhựa
đường, không biết có từ đời nào nằm im lìm sét đỏ, lở từng mảng, bánh xe
sắt lún sâu xuống đất khoảng nửa bánh, bên trái cận đường Tống Phước
Hiệp, là cây đa rất to, có lẽ to nhất Vĩnh Long thời đó, chứng kiến biết
bao thế hệ nhân tài, nhân đức được đào tạo từ trường Nguyễn Thông, tuy
không phải vùng đất của bốn mùa, nhưng cứ cuối thu lá úa rụng từng đám
xuống đường, trải thảm cho khách bộ hành cho học sinh đến trường thong
thả bước. Đâu khoảng mười tuổi, từ nhà, tôi hay ngắm cây đa bên kia sông
trong mưa giông qua khung cửa khép hờ sau nhà, phía tàng cao, có một
cành đưa ra xa bên ngoài, trên đó có hai nhánh nhỏ hướng thẳng lên cao,
một cao phía trước, một thấp hơn phía sau, nhánh nầy chuyển động lên
xuống, tôi cảm nhận cành cao phía trước là bà Nội tôi, còn cành nhỏ phía
sau là tôi, hai bà cháu cùng cỡi ngựa, chở tôi ra cuộc đời. Bởi nhà tôi
lúc đó chỉ có hai bà cháu, bà nuôi tôi từ ấu thơ đến ngày nay bởi cha
mẹ ly cách từ khi tôi khoảng ba tuổi, mà bà lại là bà nội nuôi, bà nội
ruột mất hồi tôi chưa sanh ra, thuở nhỏ tôi ương yếu lắm, khoảng bảy
tuổi, tôi đau ban bạch (thương hàn), nằm liệt cả năm, hết bác sĩ Long
(Vĩnh Long lúc đó dường như chỉ có bác sĩ Long) đến thuốc bắc, không
khỏi nội chở tôi sang xã Mỹ Thiện trên đường đi Sài Gòn, từ đường lộ đến
nơi trị bệnh là đường đất khá xa, nội dẫn tôi đi bộ được đoạn ngắn, tôi
mệt, nội thương cõng tôi trên lưng đi tiếp, nội lúc đó cũng khá lớn
tuổi. Cả năm bà cháu ăn ở nhà người trị bệnh cho tôi, mãi cận Tết, bà
mới đưa tôi về nhà trị bệnh tiếp, tôi mạnh rồi bệnh trở lại (tiếng xưa
gọi là trúng lại), năm đó là đầu năm học lớp tư, nghỉ liên tiếp có hơn
ba năm, mới đi học lại, cũng lớp tư.Ôi công ơn dưỡng dục biết bao nhiêu
mà kể, tôi thương nội tôi lắm, bà còn hơn có lẽ nội ruột của tôi, vừa là
cha, vừa là mẹ chăm, cưng chìu tôi từng chút một, bởi nội tôi không có
con, nhận ba tôi là con, ôi nuôi cha, rồi nuôi con của cha, với tình
thương bao la, vừa bảo bọc vừa che chở v…v..với bao đau thương buồn bã,
nội tôi bỏ tôi lại một mình vào năm 78, bởi lúc nầy tôi chưa lập gia
đình
Thỉnh thoảng tôi vẫn đi học bằng đò lớn (đò phìa chợ ), bến đò nầy còn
gọi là đò bến đá, bởi nơi đây có trại hòm, và chứa đá làm bia mộ. Còn
nhớ ông thợ đục chữ trên bia già lắm vào lúc đó, tóc bạc trắng, mắt
kiếng già được gắn chặt trên mắt nhờ sợi thun khoanh vòng sau đầu, ông ở
trần đưa làn da nhăn nhúm bọc không kín những chiếc bẹ sườn nhô cao lên
trong mỗi cử động đục của ông, người khom sát với chiếc đục nhọn mũi,
to, đầu đục sắt cuốn lại tròn phủ xuống thân tay cầm. Cạnh bên là ông
thợ cưa đang xẻ gỗ, chiếc cưa rất to, ông ở trần, mặc chiếc quần đen vải
ta cắt lửng, ông đứng trên thân cây súc (gỗ to nguyên thân tròn), kéo
lên đẩy xuống với chiếc cưa to hết khổ, ông này cũng ốm, khá tuổi, xả
ván theo yêu cầu của chủ trại
Chiếc đò này to dầy, do ông già câm chèo, nói là chèo, chứ thực ra ông
đứng ở mũi đò, lưng hướng ra sông, nại lắc qua lắc lại bằng một chiếc
chèo to dài, chân ông lúc đó có lẽ do dị tật, bước lên hoặc xuống đò đều
thẳng cứng, ông có một bà vợ làm bạn cũng câm như ông, đôi vợ chồng tật
nguyền này vẫn ngày ngày đưa khách sang sông, trong đó có tôi, viết
những dòng này, xin nguyện cầu cho ông bà được bình yên nơi cõi thiện
lành, nếu có kiếp tái sanh, cầu ông bà cùng những người thiện tâm được
an lạc, hạnh phúc.
Trương Văn Phú
Tuổi Thơ Tôi Theo Thời Gian - Phần 2
Chung quanh Vĩnh Long rất nhiều cầu, kể ra nghen, từ trong nội ô. Cầu Tân Hữu thì đi Cần Thơ, cầu Tân Bình đi Sài Gòn hướng bắc, cầu Vòng, cầu Ông Me đi Trà Vinh, trên Kinh Cụt ranh phường một, chiều dài kinh khoảng năm trăm thước, có đến bốn cầu, từ ngoài mé sông cái trở vô, cầu Cái Cá, cầu Lộ, cầu Kinh Cụt, cầu Công Xi heo, phía đông nam có cầu Khưu Văn Ba (nay là cầu Phạm Thái Bường), đi đến nữa là cầu Ông Me, để di chuyển qua phà Đình Khao, lại qua cầu Chợ Cua, phường một đến phường bốn qua cầu Lầu, qua phường năm có cầu Thiềng Đức, ngày xưa còn gọi là cầu sắt.
Nghe nội tôi kể lại, khi đó tôi nhỏ xíu nhưng vẫn còn nhớ, (cây
cầu sắt yếu dữ lắm, con chó chạy mà cầu rung rinh, phải mời bác vật
LANG đến xem xét, ổng cầm baton vừa đi qua cầu vừa dộng baton xuống cầu
rồi bảo, mấy ông yên tâm cầu không sập đâu mà sợ ), cầu không sao,
cầu già rồi lung lơ chút đỉnh, đâu có mời khách bộ hành tắm táp ngang
xương mà phải sợ, sau đó gia cố thêm ống thép, rồi cầu làm nhiệm vụ
tiếp, nếu tôi nhớ không lầm, bề ngang khoảng năm thước, không có đường
dành cho người đi bộ, ván cầu đóng khá thưa, cách nhau khoảng năm sáu
phân, không biết các bạn nhỏ trang lứa của tôi ra sao, chứ tôi ớn qua
cầu, đi mà nhìn xuống sông nước chảy hun hút phía dưới, hãi hùng thấy
bà. Khà, khà vậy mà vẫn có động lực lớn giục thúc tội sang sông bằng cầu
buổi sáng mà không đi đò của bác Tư Lường.
Qua Tết ta, trước miễu Tống Quốc Công (nay là nhà văn hóa), là khu vực
bán dế phục vụ các em thiếu (quần dài) mặc xà lỏn, giành nhau chụm đầu
đưa đít ra ngoài đường, lựa dế. Thường thì khoảng năm sáu quầy bán dế,
ông, bà bán ngồi chồm hổm, các chiến binh được chứa đựng đủ phương tiện:
thùng thiếc cũ (nguyên là thùng chứa dầu lửa hiệu con sò), thùng cây,
thau nhôm có nắp đậy, ai mua thì dở ra, việm sành, .v..v..
Vốn sợ qua cầu, nhưng vì ham dế, bỏ guốc, đi đến bện này cầu, hít hơi
(lấy hơi Minh Vương), chạy tốc độ tối đa sang bên kia mua dế, hồi nhỏ đi
học mới đi sandal, ở nhà đi guốc, sang chợ đến quầy bán guốc của bà
Chín, má vợ của bác Sáu Minh, guốc làm bằng cây vông,vì loại cây này khi
khô rất nhẹ, guốc đàn ông con trai thì thuôn dài, đế thấp, guốc các bà,
các cô có eo giữa thân, gót cao nhưng cũng vừa vừa, vật dụng đở chân
của các bà đa dạng phong phú nhiều, guốc vông, guốc sơn, guốc sơn mài,
còn quai thì đủ kiểu.
Đến quầy lựa cho vừa chân, đóng quay tại đó, bà Chín vốn đầy đặn mặt
rất phúc hậu, luôn tươi cười khi khách đến mua, dù quen hay lạ, phải
công nhận bà Chín cười rất phúc (không biết hai cô Phượng – Oanh có còn
nhớ hay không ), riêng bác Sáu Minh gái mãi sau nầy vẫn đi guốc vông, dù
bà Chín mất đã lâu mãi đến khi, bác bị tai nạn gần đây mới không còn đi
guốc nữa (đi dép lào, nhưng nằm nhiều hơn đi).
Vĩnh long xưa, có hai nơi dành cho các đoàn cải lương, là miều Tống
Quốc Công ở phường một và chùa Bà Minh Hương ở phường năm, còn rạp Lê
Thanh dùng chiếu phim, tôi nhớ có lần đoàn hát cải lương Hoa Sen, đoàn
này là cải lương pha hát bong (chiếu phim), hồi xưa gọi là đoàn cắt bụp,
vì có bắn súng. Lần này tôi được tham gia xem nhờ bà nội dẫn theo đi
cùng bác Sáu Minh gái. Nội tôi mặc áo dài thâm, còn bác Sáu gái áo dài
trắng nhạt, rất lịch sự, đi xe lôi đạp (còn gọi là xe kéo), lên dốc cầu
sắt ông tài xế gò lưng kéo lên, đến khi xuống dốc ển lưng ghì lại, ở chợ
rất đông xe lôi đạp, nếu tôi nhớ không lầm thì chỉ khoảng hai chiếc xe
lôi có gắn máy kéo, đầu kéo là chiếc xe mobilet (mô bi lết)loại bình
xăng vuông, đời đầu. Khi có khách tài xế kéo xe chạy lấy trớn, rồi nhảy
lên xe rất nhanh gọn, đạp lia lịa, rồ ga máy kêu xẹt xẹt bằng bằng khói
xanh um một góc đường.
Từ cầu sắt (Thiềng Đức) phía phường năm của tôi, tuy đoạn đường ngắn,
đường cùn, có ba rạch ba cầu, gồm từ cầu sắt quẹo trái, rạch cầu cây Mít
(nơi đầu cầu khi xưa có cây mít bự), rạch cầu Đào, đến là cầu Dài, tiếp tục đi tới nữa là cùng đường, bên trái, đường dẫn sang chợ Vĩnh Long qua đò Bến Đá, bên phải là cầu Dài,
cầu này đáng lẽ phải ghi vào tự điễn guiness phường mới được, bởi nó
đúng nghĩa, đầy nghĩa (cầu kì), là cầu ván, đủ thứ ván tạp, dài vắn khác
nhau, ngang khoảng sáu bảy tấc, nằm trên từng khoảng cọc ngắn, cao độ
năm tấc, còn nhà dân thì thấp dưới cầu, chạy ngoằng ngoèo tùy theo nhà
cư dân, rất dài cập theo bờ sông cái, giờ thì không còn, bởi bờ sông lở
sâu, nay thành bờ kè rất khang trang.
Để coi, trong khoảng đường Lê Minh Thiệp (là tên ông giáo) nay là đường (Nguyễn Chí Thanh), có hai chùa tàu, chùa Ông và chùa Bà, riêng chùa Bà ,thờ bà Thiên Hậu, chia không gian thờ và hát xướng làm hai khu riêng biệt, (cũng tương tự như miếu Tống Quốc Công), hướng cầu xuống tí, ngày xưa lắm là đình, tọa lạc bên cạnh rạch cầu cây Mít, đình này nằm bên trái cây dương rất to cao, nơi đây dùng làm chổ hội họp của cấp Hương, Bộ làng Thiềng Đức hồi xưa. Sau đó, khoảng thập niên bốn mươi, năm mươi, kèm thêm chức năng giáo dục, lớp nhì và lớp nhất ,trước khi sang tường tỉnh học. Còn lớp năm, tư ,ba thì học trường fostille (còn có tên gọi là trường thủy binh), một cấp mà hai nơi dạy , cách nhau khoảng hai trăm thước trên cùng một đường, kể được hai chùa Tàu, một đình, còn chùa Phật cũng rất cổ kính, tên gọi chùa Long Thiền, (nay đang tân trang lại theo trào lưu, nên cũng nhạt nhòa ít nhiều nét cổ kính xưa), sau năm bảy lăm,thêm chùa Ni, do ni lập, tên Thanh Châu, cạnh chùa Long Thiền, là nhà thờ họ đạoThiềng Đức, do cha Lục hoạt đông mà nên, lúc đầu nhà thờ hơi nhỏ, nay chuẩn bị nới rộng và cất xứng đáng với sinh hoạt trong họ đạo, cùng giáo dân.
Đề cập đến trường học mà không kể hết các trường thì quả tình có lỗi. Vĩnh Long xưa, có lẽ dân địa phương trọng học vấn lắm, cấp trung học công là trường Nguyễn Thông, cấp tư thục có ba trường, bao gồm trường Lam Sơn, trường Long Hồ, trường Nguyễn Trường Tộ, Lam Sơn rã gánh trước, rồi đến Long Hồ, nay vẫn có tên trường Nguyễn Trường Tộ, đã dời địa điểm khác nghe đâu là trường điểm, là trung học công lập. Nơi ba ngôi trường trung học tư thục đã từng đào tạo, nay thành nơi kinh doanh, dân cư, công cộng. Sau nầy khi trường Nguyễn Thông đổi tên Tống phước Hiệp, thì Nguyễn Thông là tên trường bán công, tọa lạc cạnh di tích cây đa cửa Hữu, cũng trong phường một còn có hai trường tiểu học Nam và Nữ riêng biệt.
Về hướng đi Cần Thơ, từ khoảng ngã ba Cần Thơ lên cầu Tân Hữu, khi xưa dành chứa rác, thuở này tôi còn lóc cóc, theo mấy bà chị lớn lội bộ đến gần cầu Tân Hữu xuống ruộng khô cùng ngồi túm tụm, mua dưa gang ăn tại chỗ với đường chảy, dưới ngọn đèn dầu lửa bánh ú, được kéo tim đèn cao cả phân, khói đèn mù mịt, bởi có nhiều người bàn, nhiều tốp anh chị lớn kéo nhau lên đây, vui chuyện làm quen nhau giữa trai gái là chánh, ăn là phụ, mấy bà chị trong xóm tôi, cứ chạng vạng tối, mùa dưa gang, rũ nhau trẫy hội mong có anh nào để mắt đến mình, bởi các bà đang độ, mà ngộ chẳng có ai chú ý cả, đi về quân số như y, không dư thiếu, để được mừng. Đâu độ khoảng những năm 56 -57, chính quyền lúc đó thổi sình (xáng thổi) hai bên bờ lộ, mở rộng khu dân cư, cùng lúc nầy có thêm hai trường trên vùng xáng thổi: trường trung học Kỹ Thuật và trường Sư Phạm Vĩnh Long, rồi một sân banh kế bên được thành lập, dân cư tập trung đông đúc, dần dần trở nên khu kinh tế ổn định.
Nói đến trường lớp, là nhớ liền thầy cộ bạn học, còn nhớ khi sang sông
đi học bằng đò, do ông câm chèo đưa qua bến chợ cá ở Vĩnh Long, tôi đi
dọc theo con đường có nhà của Tiến ở (ty Ngân khố), trước mặt tôi, hai
chị lớp trên đang thong thả ôm cặp bước đều, chị đang đi phía trong bỗng
bất chợt nhảy nhanh tới trước vừa la lớn:
-“Á” với vẻ hốt hoảng hoang mang, chị bạn đi cạnh hỏi
- Gì vậy?
- Tao tưởng c.. ,thì ra hai bà này mải mê chuyện nên quên trên đường đi học rải rác, từng mảng đất sét lớn nhỏ do bánh xe bỏ dọc đường học trò đi.
Trong năm đệ tứ,Tuấn ngồi dãy đầu bàn thứ ba, còn tên ngồi kế Tuấn tôi
quên (có lẽ Tuấn còn nhớ), tôi thì ngồi đầu bàn thứ tư dưới Tuấn, cạnh
trong là tên Đô, tên này khỉ khọt thuộc sư phụ tôi, ngồi bàn học, quần
hùng khoanh tay trên bàn như nhau, thầy quay lưng để viết bài, Đô với
tay khều Tuấn, thầy quay xuống, nó khoanh tay gọn hơ trở lại, thầy vừa
xây lưng, thằng Đô khều mạnh hơn, Tuấn làm tỉnh, lần này tên Đô thò tay
khỉ xô mạnh tới trước, mắt kiếng của Tuấn trể xuống, tên này tức mình
quá, quay ra sau (kênh)một phát,vậy là bình yên trở lại, thằng Đô mới
thôi cái trò giởn nhây.
Cũng thằng Đô nữa, số là khi vào học, các bạn kẹp tóc thường úp nón lá ở
đầu bàn (giờ thì không còn thấy hình ảnh nón lá nghiêng nghiêng mái tóc
với một tay vịn kèm, tay kia ôm cặp, khi đến trường hay khi tan học),
không biết ở đâu mà nó có cọng thun khoanh, ông nội xé giấy tập làm (bì)
vói bắn vào vào nón lá kêu cái bụp, kết quả, nón có một lổ thủng, các
bạn đang tập trung học có ai chú ý đâu mà biết, nó tiếp tục phát thứ
hai, đến lần thứ ba, phía bàn sau có sự tham gia của hai ba đứa nữa, lần
này chúng nó bắn hăng quá, tôi nghe, bùm bụp liên tu, tôi vốn nhạy cười
đang vén mồm toét ra (vô duyên), thầy quay xuống, miệng tôi trở về vị
trí cũ nhanh chóng, các bạn gái chắc là phát giác ra, lục tục mang nón
mang vào trong, không biết đợt pháo nầy, hai chị Trân, Huê, hai bạn
Điệp, Huỳnh Hoa có dính đạn không nữa, chờ khi gặp lại nhớ hỏi chỉ Trân
xem mới được.
Trên đường tan học về nhà, Độ chung đường chung hẻm với Huỳnh Hoa, tên
này thương thầm Huỳnh Hoa, nên lén quăng trái tim mình vào cặp bạn, còn
HH thì chứa tim của bạn Bảnh cùng lớp, ngồi sau cách chúng tôi vài bàn,
nên khi trái tim Đô quăng vào, nhưng dội ra rồi rớt đâu đó dọc đường hồi
nào cũng không rõ. Học được nửa năm đệ tứ Đô nghỉ học, bỏ lớp, bỏ bạn,bỏ trường nhưng không bỏ được thương nhớ mang mãi theo đường phiêu bạt
trong chiến tranh.
Lần nọ tôi gặp lại Đô ở Rạch Giá, hai đứa mừng lắm, rủ nhau đi dạo, rồi
nhậu la cà trên những kệ của ai đó dọc đường đi, có cả Tâm đen cũng bạn
học cũ nhưng không chơi chung thuở còn học cùng nhậu. Cách khoảng năm
tôi cũng gặp lại nó, hai đúa uống rượu nhắc chuyện xưa, toàn chuyện thuở
còn đi học, vui có, buồn có,ưu tư cũng có đủ cả, chuyện mãi đến khoảng
nửa đêm, tôi về chỗ ở bên trong bưu điện Rạch Giá,nơi uống gần bãi biển
khá gần nơi tôi ở, thằng Đô không cho tôi về một mình, nó đưa tôi về,
tôi thấy tội khi nó lang thang chập choạng một mình khi trở về, tôi lại
đưa nó về, rồi nó cũng cùng tâm trạng như tôi, tiễn tôi, sau đó cùng
chia tay nửa đường, con đường khuya mờ ảo với ánh điện vàng vọt hắt từ
đèn đường bên kia sông. Sau đó tôi không còn gặp lại nó nữa.
Sau bảy lăm, cũng rất tình cờ, tôi gặp lại nó ở quê nhà Vĩnh Long, với đôi mắt
đã bỏ lại ở An Lộc, thằng này hay quên quá, hết bỏ trái tim, rồi bỏ đôi
mắt. Gặp mặt nhau, ngồi trên sạp cây trước nhà má nó, một xị rượu, một
dĩa mồi, mà khi ăn uống phải mò, tôi nó ngậm ngùi kể chuyện xưa, rồi nó
mất hồi nào tôi cũng chẳng hay biết, tôi mãi bươi tìm sinh kế, lăn lóc
hết thành thị đến thôn quê. Nhưng câu hát nối theo lời tôi hát, tôi vẫn
không quên, giờ hình hài nó đã tan rã có lẽ lâu lắm rồi.
Tôi hát nho nhỏ ở buổi uống rượu cuối cùng, (em tan trường về đường mưa nho nhỏ, em tan trường về đường mưa nho nhỏ ) nó ca nối theo, đúng hơn nó đọc …em tan trường về, anh theo tò tò, theo để hửi đ.....sau lời đọc là nụ cười buồn phảng phất nét bao dung cùng đôi mắt mù.
Trương văn Phú
Đêm Và Nỗi Nhớ
Tiễn người trở gót quay lưng
Trái tim trăn trở rưng rưng nhịp buồn
Trăng nghiêng sầu thắt dáng cong
Giọt mưa giăng mắc bên song lạnh lùng
Người đi như nước xa nguồn
Cuộn câu nhung nhớ giữa mông mênh chiều
Ta về gom nhặt chắt chiu
Vần thơ ngày cũ dấu yêu nhạt nhòa
Sóng tình vời vợi dạt xa
Trong nhưng nhức gọi vỡ òa tim đau
Về đâu, lại hỏi về đâu
Xoáy từng ống máu nát nhàu buồng tim
Đêm qua đêm lại từng đêm
Bóng soi vách trắng hắt đèn chông chênh
Môi khô bất chợt gọi tên
Dõi đôi tầm mắt bên thềm lặng tênh
Dối lòng tìm chút bình yên
Dìm trong khắc khoải muộn phiền ngủ quên
Gió lùa giá lạnh… giật mình
Đêm tàn rơi rớt mộng tình riêng ta….
Trần Thị Dã Quỳ
Họp Mặt Của Cựu Giáo Sinh Sư Phạm Vĩnh Long Kỳ 17, Lớp 6, Khóa 8
Kim Oanh kính tặng các Anh Chị, mến chúc các Anh Chị luôn bên nhau với kỷ niệm đẹp trong đòi.
Kính mến
Em Kim Oanh
Kính mến
Em Kim Oanh
Nhạc Phẩm: Hội Ngộ (nhạccuatui)
Ca Sĩ: Công Hoàn
Hình Ảnh: Huỳnh Hữu Đức và Nguyễn Tấn Hiệp
Ca Sĩ: Công Hoàn
Hình Ảnh: Huỳnh Hữu Đức và Nguyễn Tấn Hiệp
Tiểu Sử Ông Nguyễn Thông 1827-1884
Nguyễn Thông, tên đầy đủ là Nguyễn Thới Thông, tên chữ là Hy Phần, hiệu
là Kỳ Xuyên, biệt hiệu là Độn Am, sinh ngày 28 tháng 5 năm Đinh Hợi
(1827), tại thôn Bình Thanh, huyện Tân Thạnh, phủ Tân An, tỉnh Gia Định
(nay là tỉnh Long An), mất năm Giáp Thân (1884), chôn ở núi Ngọc Sơn, xã
Ngọc Lam, phủ Hàm Thuận (nay là Thành Phố Phan Thiết).
Thân phụ là Nguyễn Hanh người Tân Thạnh (tỉnh Gia Định), kết hôn cùng
bà Trịnh Thị A Mầu nguyên quán ở Thừa Thiên, sinh hạ được hai trai là
Nguyễn Thông và Nguyễn Hài.
Anh em hơn kém nhau hai tuổi, cùng học với cha ở nhà từ bé. Năm Nguyễn
Thông mười tuổi thì mẹ mất, mười bảy tuổi thì cha mất. Gia đình gặp cảnh
khó khăn, Nguyễn Thông phải lao động để giúp đỡ gia đình.
Rất ham học nhưng không có thầy, Nguyễn Thông đành phải cùng em tự học.
Sau may mắn được học với ông Nguyễn Nhữ Hiền một thời gian ngắn (ông
này được bổ đến Tân An không bao lâu lại trở về kinh).
Khoa 1849 (năm Kỷ Dậu, triều Tự Đức) Nguyễn Thông đỗ cử nhân, và thi
hội bị đánh hỏng vì tập bài thi bị lấm mực. Đọc bài thi vì thấy văn tài
của Nguyễn Thông, nhiều người khuyên nên tiếp tục học để thi khoa sau.
Nhưng nhà nghèo không thể tiếp tục ngồi học, Nguyễn Thông nhận chức huấn
đạo tại Phú Phong, tỉnh An Giang.
Sáu năm sau, năm 1855 ông ra Huế làm việc ở nội các tham dự soạn sách nhân sự kim giám (gương vàng soi việc người).
Năm 1859 quân Pháp đánh thành Gia Định, Nguyễn Thông tình nguyện tòng
quân và đã giúp việc đắc lực cho thống đốc quân vụ Tôn Thất Hiệp.
Năm 1861 đại đồn Chí Hòa bị mất, kế đến tỉnh Biên Hòa bị chiếm, cậu ông
là Trịnh Quang Nghi (có chiến đấu ở trận Chí Hòa) và bạn ông là Phan
Văn Đạt mộ nghĩa binh chống quân Pháp ở Tân An và Gò Công. Ông tham gia
phong trào ấy, may được thoát nạn, Phan Văn Đạt bị bắt giết. Còn Trịnh
Quang Nghi qua năm sau giúp Trương Định rất đắc lực trong chức tham tán
quân vụ.
Năm 1862, ba tỉnh miền Đông phải nhượng cho Pháp, nhờ cụ Phan Thanh
Giản đề cử Nguyễn Thông được bổ làm Đốc học Vĩnh Long. Về Vĩnh Long, ông
vẫn liên lạc với cậu mình (Trịnh Quang Nghị) vui buồn với cuộc chiến
đấu của Trương Định, đồng thời liên lạc với các sĩ phu yêu nước, trong
đó có những sĩ phu dời gia đình từ miền Đông sang. Những điều nghe thấy
lúc này giúp ông dễ dàng viết lưu lại cho đời mấy bài ký về Phan Văn
Đạt, Trương Định, Hồ Huân Nghiệp trong “Kỳ xuyên văn sao”.
( Mộ Phần của Ông Nguyễn Thông - Phan Thiết - Tỉnh Bình Thuận)
Riêng đối với địa phương Vĩnh Long, Nguyễn Thông đã lưu lại những dấu
ấn đậm đà, quý báu. Ông chủ động thực hiện bằng được việc xây dựng Văn
Thánh Miếu dự trù từ nhiều năm trước. Cạnh Văn Thánh Miếu có dựng lầu
Tụy Văn làm nơi chứa sách và học tập. Ông lại cùng Phan Thanh Giản khởi
xướng việc dời mộ nhà giáo dục nổi tiếng ở lục tỉnh là Võ Trường Toản,
từ Chí Hoà đưa cải táng về Bảo Thạnh (Ba Tri, Bến Tre này nay) vì lẽ đức
nghiệp của ông thầy chung không để cho quân địch làm ô uế.
Sau này, Tụy Văn lâu đổi tên là Văn Xương Các và biến thành nơi thờ cụ Võ Trường Toản cùng các công thần khác.
Về tác phẩm, Nguyễn Thông còn lưu lại mấy bài thơ lên quan đến Vĩnh
Long, đáng xem là những viên ngọc trong kho tàng văn học địa phương.
Bài “Lên lầu trên thành tỉnh Vĩnh Long” (1863) giữ cho ta được một chút hình ảnh thành xưa:
Vũ tễ đinh câu tập vãn cầmNhất thanh họa giác bán lâu âm
Thiên thiêu thành quách chu tạo tại
Đa nạn thân bằng khế khoát thâm (. . . )
Dịch:
Chim chiều về bãi tạnh cơn mưa
Im mát nữa lầu tiếng giốc đưa
Khối lửa vây thành lưu vết trước
Nạn tai rối bạn nặng tình xưa (. . . )
Năm 1867 trong bài thơ Đón Tết Đinh Mão ở Vĩnh Long, ông cho thấy mình
vui cảnh nghèo và lòng vẫn thương ba tỉnh miền Đông:
Đinh Mão tân tuế tác
Nhất ngọa Long Giang chữ,
Niên hoa ngũ độ xuân
Tiệm khan nhi nữ đại,
Đầu giác mấn mao tân.
Quan dĩ trì tàng chuyết,
Thân tương kiệm bổ bần
Cố hương nhưng mã tại,
Cốt nhục chánh bi tân.
Dịch:
Thơ Tết năm Đinh Mão (1867)
Bãi Long Giang mới ngụ,
Chốc đã năm mùa xuân.
Trai gái dần khôn lớn,
Tóc râu vụt úa tàn
Chậm thăng che vụng dại,
Giỏi nhịn đỡ bần hàn
Quê cũ còn binh lửa,
Đồng bào đang khóc than.
Đinh Mão tân tuế tác
Nhất ngọa Long Giang chữ,
Niên hoa ngũ độ xuân
Tiệm khan nhi nữ đại,
Đầu giác mấn mao tân.
Quan dĩ trì tàng chuyết,
Thân tương kiệm bổ bần
Cố hương nhưng mã tại,
Cốt nhục chánh bi tân.
Dịch:
Thơ Tết năm Đinh Mão (1867)
Bãi Long Giang mới ngụ,
Chốc đã năm mùa xuân.
Trai gái dần khôn lớn,
Tóc râu vụt úa tàn
Chậm thăng che vụng dại,
Giỏi nhịn đỡ bần hàn
Quê cũ còn binh lửa,
Đồng bào đang khóc than.
Năm 1867, Pháp đã bức chiếm thành Vĩnh Long, lúc ấy Nguyễn Thông 41
tuổi, cùng một số sĩ phu “tị địa” ra Bình Thuận. Ông cùng các bạn bàn
nhau việc điều tra địa thế, tìm căn cứ để tạo điều kiện liên lạc với
Biên Hoà, đồng thời phát triển nghề nông, sản xuất lương thực lo kế lâu
dài. Ông tổ chức việc đi thám hiểm các vùng cao nguyên La Ngư, Bà Dần,
ghi rõ địa hình, địa thế khả năng khai hoang và vẽ rõ địa đồ. Sau đó ông
bị điều động đi Khánh Hoà rồi Quảng Ngãi, Huế.
Cuối năm 1867 làm án sát Khánh Hòa, có dâng sớ xin truy tặng tên thụy
cho cụ Phan Thanh Giản và điều trần bốn vấn đề ích nước lợi dân nhưng
không được chấp thuận.
Năm 1870 làm Biện lý bộ hình rồi Bố chánh Quảng Ngãi. Đặc biệt ở Quảng
Ngãi trong vòng non ba năm, ông đã làm nhiều việc có lợi cho nông dân,
nhất là công tác thủy lợi. Lúc này ông mang một nỗi oan là bị tố cáo xử
án thất xuất nên bị cách chức, bị giam và xử trượng. Dân và lính đều
thương mến ông, đứng ra xin quan khâm sai Nguyễn Bính vừa đến Quảng Ngãi
xét lại tội trạng của ông. Có người tự nguyện đến tận kinh thành kêu
oan. Ông được tha. Sau rõ lại là do tên cường hào Lê Doãn vu cáo.
Có hai việc ông đề nghị được triều đình chấp thuận: tổ chức trồng cây
và định rõ việc học sử cùng xin ban cấp sách học các trường.
( Đền Thờ Ông Nguyễn Thông tọa lạc tại Phan Thiết)
Năm 1876, trở ra làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám, cùng các ông Bùi Ước,
Hoàng Dung Tân Khảo duyệt bộ “Khâm Định Việt sử cương mục”. Nhân dịp này
ông soạn bộ “Việt sử cương giám khảo lược”. Đồng thời ông dâng sớ (và
được chuẩn y) việc khai khẩn vùng Tây Nguyên từ biên giới Campuchia đến
Quảng Trị, thu nạp dân Nam Kỳ ra. Tiếc là bị quân Pháp phản đối nên
triều đình ra lệnh bãi bỏ việc này.
Năm 1880 ông xoay qua bàn với các người đồng hương chánh thức lập Đồng
châu xã, thời gian này ông làm phó sứ diễn nông kiêm Đốc học Bình Thuận.
Ông dựng một ngôi nhà nhỏ bên cạnh sông Phan Thiết, đặt tên là Ngọa Du
Sào, trên vách có vẻ một số cảnh tiêu biểu mà đời ông trải qua. Năm 1884
Nguyễn Thông mất (58 tuổi).
Nhìn chung, Nguyễn Thông là một người nghèo có chí tự học, trở thành
một nhà nho thật lòng yêu nước thương dân, có tư tưởng tiến bộ, khác hẳn
hạng xu nịnh đương thời.
Thơ văn của ông có giá trị về hình thức lẫn nội dung, được xếp về loại
thơ văn yêu nước, và Nguyễn Thông xứng đáng là nhà văn hóa lớn của nước
nhà
Tác phẩm của Nguyễn Thông gồm có
Ngọa Du Sào thi văn tập
Độn Am văn tập
Kỳ xuyên văn sao
Kỳ xuyên văn độc
Việt sử cương giám khảo lược
Nhân sự kim giám
Dưỡng chính lục
Chúng ta nhớ ơn Nguyễn Thông nhà hoạt động chính trị, xã hội, nhà giáo dục, nhà văn, nhà viết sử yêu nước, có quan điểm tiến bộ, đã đóng góp vào sự nghiệp cứu nước cũng như sự nghiệp phát triển kinh tế và văn hóa của Vĩnh Long và của cả đất nước ta.
Chúng ta nhớ ơn Nguyễn Thông nhà hoạt động chính trị, xã hội, nhà giáo dục, nhà văn, nhà viết sử yêu nước, có quan điểm tiến bộ, đã đóng góp vào sự nghiệp cứu nước cũng như sự nghiệp phát triển kinh tế và văn hóa của Vĩnh Long và của cả đất nước ta.
(Một ngôi trường được mang tên Ông- Trường Bán Công Nguyễn Thông Năm 1967-Vĩnh Long)*
Trương Kỳ Quốc -Sưu tầm
(Cựu học sinh Kỹ Thuật - Vĩnh Long)
* Cám ơn cô Kim Phượng hình ngôi trường và lớp Đệ Tam B - niên khoá 1967
* Cám ơn cô Kim Phượng hình ngôi trường và lớp Đệ Tam B - niên khoá 1967
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)