Chủ Nhật, 1 tháng 12, 2013

Thơ Tranh: Lạc Miền Ăn Năn

Ngày xưa em thơ ngây quá cho lòng mình lạc miền ăn năn...



Thơ & Thơ Tranh: Suối Dâu

Hướng Đạo Việt Nam - Nghi Thức Tráng Sinh Lên Đường - Vĩnh Long 1972


Sir Robert Baden Powell (The Chief Scout), ông tổ phong trào Hướng Đạo Thế Giới

Sir Robert Baden Powell va Phu Nhan tham quan một trại Hướng Đạo Thế Giới, 
tổ chức tại Anh Quốc.
* * *
Nghi Thức Tráng Sinh Lên Đường

      Những hình ảnh dưới đây cách nay khoảng 40 năm.
      Sau khi đã sinh hoạt với Tráng Đoàn từ 2 năm trở lên. Tráng Trưởng và Tráng Phó đề nghị cho Lên     Đường và sẽ trở thành Huynh Trưởng của tráng Đoàn.
      Cha Peter Dương (Dương Bá Hoạt, lớp Xuân Bích72 Vĩnh Long) đã tham gia phong trào Hướng Đạo, Kha Đoàn và Tráng Đoàn khi còn học ban Triết tại Đại Chủng Viên Vĩnh Long.
Tráng sinh Lên Đường: Peter Dương Bá Hoạt tuyên thệ trước quốc kỳ và đoàn kỳ.
Tráng Trưởng và Tráng Phó gắn TUA VAI 3 Màu: Đò, Vàng, Xanh.
Cha Dieudonné Bourguignon, Tuyên Úy Tráng Đoàn 
trao GẬY NANG cho Tráng Sinh Lên Đường
Tráng Sinh Lên Đường: Peter Dương, nghiêm chào trước Tráng Đoàn
Tráng sinh Lên Đường Peter Dương đứng trước các huynh trưởng đã Lên Đường của Tráng Đoàn.
Từ trái sang phải: 
Sơn Cô Ba, Cha Nguyễn Sơn Đoài, Cha Nguyễn Văn Hoạch, Cha Bùi Văn Hoàng (RIP), Nguyễn Văn Bá, Nguyễn Văn Nhiên (RIP)
Cha Tuyên Úy Tráng Đoàn Dieudonné Bourguignon, Cha Nguyễn Ngọc Phan,
Cha Nguyễn Sơn Đoài và Cha Trương Tấn Lực.
3 tráng sinh Lên Đường cùng ngày, chuẩn bị chia tay và sẽ sống giữa thiên nhiên 
trọn 1 ngày: Quan sát trời, mây, gió, cây cối, muông chim, cầm thú... 
để có kinh nghiệm sau này giúp Tráng Đoàn và Tráng sinh....
Từ trái qua: Tráng sinh Nguyễn Văn Thông (RIP)
Tráng sinh Nguyễn Văn Trung - Tráng sinh Peter Dương
Ảnh lưu niệm của các Huynh Trưởng Liên Đoàn Bạch Mã: 
Gồm các Ấu trưởng, Thiếu trưởng, Kha trưởng và Tráng trưởng.
1/Hàng đầu từ trái qua: Cha Peter Dương và Cha Trương Tấn Lực....,....
2/Hàng thứ nhì từ trái qua: Phương Thanh, Thu Cúc, Kim Oanh, Akêla Mai, không nhớ tên, Nghiệp
3/Hàng tthứ ba từ trái qua: Không nhớ tên, Giêng, ...,....,...

Chào thân mến đến quý Cha và quý Anh Em cùng lớp Xuân Bích Vĩnh Long 1972 ngày xưa. 

LM Peter Dương Bá Hoạt
Cô Cecilia Huang (Thư ký của Cha và Thư Ký Tòa Giám Mục Giáo Phận Đài Trung)

* Kính Cha, con cám ơn Cha hình ảnh chúng con. Con nhớ nơi đứng chụp hình này là dãy lớp gần ngôi mộ trong khuôn viên trường Tống Phước Hiệp, Cũng chính hôm ấy chúng con được làm lễ tuyên hứa, thưa Cha.
  Con đang liên lạc cùng Anh chị Em Hướng Đạo để bổ túc tên các Huynh trưởng trong những bức ảnh của Cha.
Kính chúc sức khoẻ Cha và nguyện cầu Chúa chở che Cha trong an lành. 
Con Kim Oanh


Tình Rùa



(Cảm hứng từ chú rùa nằm buồn trong hồ thu)

Rừng thu nhuộm lá vàng pha sắc đỏ
Bởi chậm chân nên vẫn mãi ngóng chờ
Em đi rồi, chiếc cầu xưa còn đó
Để một đời thắt thẻo sống trong mơ

Lê Kim Thành

Niềm Thương Nỗi Nhớ SàiGòn-Thơ HoàngDũng- Phạm Ngọc Cung Phổ Nhạc


Sài Gòn cũ 
Những giọt mưa 
Đường me lá đổ 
Đong đưa nẻo về 
Bâng khuâng một thuở đam mê 
Từng mùa Thu đến , tóc thề nay đâu ... 

Sài Gòn cũ 
Mãi chờ nhau 
Công viên thơ mộng 
Ngọt ngào môi yêu 
Ta trao kỷ niệm thật nhiều 
Tận trong dấu ái mỹ miều dáng ai 

Sài Gòn cũ 
Nhớ thương hoài 
Ai về xứ Việt 
Trao vài vấn vương 
Thân nay xa vắng Quê Hương 
Mong ngày hội ngộ thăm đường phố xưa 

Sài Gòn cũ 
Kể sao vừa 
Niềm thương nỗi nhớ 
Ghẹo đùa vu vơ 
Ươm lòng viết vội lời thơ 
Gởi về quê cũ mộng mơ mấy vần ...

Thơ: Hoàng Dũng
Nhạc Sĩ: Phạm Ngọc Cung
Ca Sĩ: Ly Yên
Thanks For Photos From: Life & Internet
Thực Hiện: Kim Oanh


Vẫn Thấy Còn Nhau Giữ Tiếng Cười




Tôi biết tôi điên những buổi chiều
Bên vườn chim sẻ ngập ngừng kêu
Như em vừa biết buồn mưa nắng
Trên lối thu gầy hiu hắt hiu

Tôi biết tôi điên rất nhẹ nhàng
Bởi hương dạ lý thoảng mênh mang
Chẳng hiểu vì em hay mắc cở
Nên mây trời muôn kiếp lang thang

Tôi biết tôi điên suốt một đời
Là khi em khóc đứng bên tôi
Cánh tay chắc mỏi vì lau lệ
Tiếng nấc không ngừng run bóng môi

Tôi biết tôi điên lúc bỏ đi
Như sông khuya lại trở trăn về
Đâu em đôi mắt là cơn sóng
Vỗ nhẹ hồn tôi rất đắm si

Tôi biết tôi điên là thế đó
Đủ làm em hiểu chút tình tôi
Một mai trăng sáng hay trăng tối
Vẫn thấy còn nhau giữ tiếng cười

Lâm Hảo Dũng

Haiku - Một THể Thơ Thú Vị

      Ảnh hưởng từ những bài Thơ Đường Tứ Tuyệt tuy ngắn nhưng thật sâu sắc, như Phong Kiều Dạ Bạc, Lương Châu Từ, Đăng U Châu Đài Ca...Tôi không ngớt đi tìm những bài thơ Tự Do ngắn của các Tác giả VN trên Internet. Và tôi đã gặp một số:

Như bài 
Trôi của Văn Cao:

Tôi thả con thuyền giấy
Thuyền giấy trôi
Tôi thả một bông hoa
Bông Hoa trôi
Tôi thả một chiếc lá
Chiếc lá trôi
Tôi giữ chặt em
Em vẫn trôi


Hay bài 
Thít Chặt của Cát Du

Em thít chặt vào anh
Tưởng không gì lèn qua cho được
Vậy mà
Có một hạt cát đã lèn giữa chúng mình
Hạt cát lớn thành viên gạch
Viên gạch hóa thành bức tường
Bức tường hóa thành Vạn Lý
Cứu em!
Em không cách gì bíu anh cho được
Em rơi
Ngã phịch xuống chân tường…

      Nhưng điều tôi  thích thú nhất là khi bắt gặp dòng thơ thật ngắn sau đây, đó là thơ Haiku của Nhật.
      Thơ Haiku là một thể thơ rất độc đáo của Nhật. Mang tính cách trào phúng. Xuất hiện vào đầu thế kỷ 15. Thời kỳ cục thịnh của thể thơ này trải dài từ thế kỷ 16 đến 19. Tuy nhiên Bản chất trào phúng của Thơ Haiku cũng dần thay đổi từ trào phúng từ từ chuyển sang tính cách Thiền. Đến nay, nội dung thơ mang tính đa dạng hơn.
Về hình thức
      Đây có lẽ là thể thơ ngắn nhất thế giới. Trọn bài thơ chỉ có 3 câu. Về căn bản, câu thứ nhất và câu 3, mỗi câu có 5 chữ, chỉ có câu 2 là 7 chữ. Như thế cả bài thơ tổng cộng 17 chữ( đó là tính theo phát âm của Người Nhật)
       Tuy nhiên vẫn có ngoại lệ về số chữ trong câu. Đến nay, một bài  thơ Haiku tuy vẫn giữ số câu là 3, nhưng số chữ trong các câu có thể tùy người làm, không bắt buộc theo 5-7-5 chữ như xưa, ngay cả tổ sư của Haiku là Matsuo Basho cũng đôi khi sử dụng ít hơn hoặc nhiều hơn số âm tiết đã nói trên; chẳng hạn bài thơ sau đây có 19 âm tiết.
Kareeda ni (7 âm) / Trên cành khô
Karasu no tomarikeri (9 âm) / Quạ đậu
Aki no kure (7 âm) / Chiều thu
Về Nội Dung 
      Một bài haiku thường chỉ "gợi" chứ không "tả", và kết thúc thường không có gì rõ ràng, haiku không mô tả trực tiếp như vẻ đẹp của mưa rơi, cảnh đẹp khi lá rụng, sao lấp lánh mỹ miều...mà mô tả sự vật hiện tượng ngay tại khoảnh khắc bắt gặp được,  vậy nên hình ảnh và cảm nhận sau khi đọc thơ hoàn toàn phụ thuộc người đọc.

       Dưới đây là nhận xét của Thái Ba Tần :

       Thơ Haiku thật kỳ lạ. Ngắn và giản dị. Nhiều khi không nói gì hoặc nói điều chẳng đâu vào đâu, thậm chí tưởng như “ngớ ngẩn”. Thế mà càng đọc, (trong trường hợp của tôi là càng dịch), ta cứ bị cuốn hút bởi sự “không có gì” và “ngớ ngẩn” đó. Tôi có cảm giác người Nhật viết Haiku không phải để truyền tải ý, mà hình ảnh, những hình ảnh chấm phá giản dị. Hình như cũng không có ý định nói điều gì to tát về triết lý hoặc tình cảm như ta thường thấy ở các dòng thơ khác. Có lẽ vì thế mà người đọc phải có sự làm quen dần để cảm nhận và yêu. 

Sau đây là trích đoạn từ  http://vi.wikipedia.org/wiki/Haiku: 
      Một bài Haiku Nhật luôn tuân thủ hai nguyên lý tối thiểu, đó là Mùa và Tính Tương Quan Hai Hình Ảnh.Trong thơ bắt buộc phải có “Kigo” (quý ngữ) nghĩa là từ miêu tả mùa (không dùng từ xuân, hạ, thu, đông nhưng dùng các từ như hoa anh đào, cành khô, lá vàng,tuyết trắng... để chỉ các mùa), và diễn tả một hình ảnh lớn (vũ trụ) tương xứng với một hình ảnh nhỏ (đời thường).
Tiếng ve kêu râm ran (tiếng ve kêu chỉ mùa hạ)
Như tan vào trong than trong đá
Ôi, sao tĩnh lặng quá!
      Ðọc thơ Haiku, ta cảm được vị trí đứng ở ngoài sự kiện của tác giả. Tác giả dường như chỉ chia sẻ với người đọc một sự kiện đã quan sát được.
Cỏ hoang trong đồng ruộng
Dẫy xong bỏ tại chỗ
Phân bón!
      Nhưng người đọc vẫn có thể nghiệm được tình cảm của tác giả, một tình cảm nhè nhẹ, bàng bạc trong cả bài thơ, nói lên niềm vui sống hay sự cô đơn, đôi khi cũng nêu ra điểm tác giả thắc mắc về cuộc đời của con người: ngắn ngủi, phù du, trước sự vĩnh hằng của thiên nhiên.
Thế giới này như giọt sương kia
Có lẽ là một giọt sương
Tuy nhiên, tuy nhiên...
      Thơ có xu hướng gợi ý hay ám chỉ bóng gió nhẹ nhàng. Thông thường trong thơ đưa ra hai hình ảnh: một hình ảnh trừu tượng sống động và linh hoạt, một hình ảnh cụ thể ghi dấu thời gian và nơi chốn.
Trăng soi (hình ảnh trừu tượng)
Một bầy ốc nhỏ (hình ảnh cụ thể)
Khóc than đáy nồi (nơi chốn cụ thể)
 
Thơ Haiku Nhật Nguyên Tác và Dịch:(theo bài viết của Nguyễn Vũ Quỳnh Như http://diendan.game.go.vn)
山鳥のyama dori noChim trĩ尾を踏む春のo wo fumu haru noTrải đuôi入日哉iri hi kanaXuân chiều tà.(Yosa Buson)

山桜yama zakuraHoa đào núi雪嶺天にsetsu rei ten niTrên đỉnh tuyết声もなしkoe mo nashiThinh không. 

海暮れてumi kureteBiển chạng vạng鴨の声kamo no koeMờ nhạt ほのかに白し honokani shiroshiTiếng ngan....
   Qua những điều trên, chúng ta thấy thơ Haiku rất hàm súc, hàm súc đến mức khiến người đọc phải thẩn thờ phải suy nghĩ để tìm hiểu, để suy luận, để tưởng tượng những gì phía sau ba dòng chữ ngắn gọn ấy. Chính những điều đó tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn người đọc.
Ngày nay, thơ Haiku có mặt trên khắp thế giới.

Huỳnh Hữu Đức Biên Soạn

Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2013

Văn Thánh Miếu - Quốc Tử Giám phương Nam - Khám Phá Việt Nam



 

      Khu Văn Thánh Miếu là một trong ba Quốc Tử giám của vùng đất phương Nam (gồm Văn Thánh miếu Gia Định, Vĩnh Long và Biên Hòa),tọa lạc trên đường Văn Thánh Vĩnh Long.
      Đối diện Văn Thánh Miếu là dòng sông Long Hồ.
      Vào Những năm thế kỷ 19, khi thực dân Pháp còn đô hộ, các sĩ phu yêu nước thời bấy giờ xây dựng nên Văn Thánh miếu từ năm 1864-1866. 
      Mục đích là nơi gìn giữ và giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống dân tộc cho người dân, là nơi ôn tập cho các sĩ tử, đề cao những bậc Nhâ hiền, mà trong đó người có công đầu xây dựng nên Văn Thánh là cụ Phan Thanh Giản - Kinh Lược Sứ Nam Kỳ và cụ Đốc học Nguyễn Thông.
      Bức hoành phi với đôi câu đối của cụ Cao Xuân Dục và 3 tấm bia bằng đá. Đến đây ta như thấy được lòng yêu nước, trăn trở và niềm tin sắt đá vào một tương lai tươi sáng của tiền nhân trong thời kỳ tối tăm nhất của vùng đất Nam Kỳ lục tỉnh.
           Trải qua nhiều thăng trầm và biến cố lịch sử, khu Văn Thánh được trùng tu nhiều lần nhưng tất cả vẫn giữ được nét cổ kính và uy nghiêm như thủa ban đầu.

Khám Phá Việt Nam thực hiện
(Ngô Minh Trí Sưu tầm)

Muộn Màng


(Từ Ăn Năn của Kim Quang)

em đã cạn suy tháng dài - ngày ngắn
giọt lệ tình theo vạt nắng bay cao
em bàng hoàng nghe đôi môi chợt mặn
bóng hình nào theo ngọn gió lao xao !

một người đi - để lại gió thét mưa gào
tim khô héo theo tháng ngày mộng mị
một lần xa - là xa rời vạn kỷ
mất nhau rồi - mới nhận được rất cần nhau !

hình bóng nào in đậm nét nhiệm mầu
nghĩa ân cũ ùa về trong nhung nhớ
hởi người xưa - có đoạn đường cùng nhịp thở
em ăn năn sám hối ...tự ban đầu.

Dương Hồng Thủy


Ăn Năn


Khi người thân đã ra đi vĩnh viễn
Chợt thấy mình sống chưa hết ân tình
Bao muộn phiền nghĩ ngợi cứ liên miên
Nghe bứt rứt trong lòng đầy hối tiếc.

Để hôm nay người đã đi biền biệt
Lời ngọt ngào cất dấu bỗng đậm màu
Sống chưa trọn, không làm đẹp lòng nhau
Trái tim đau làm tình thân khô héo.

Một chút tình như lá úa bay vèo
Không nở hoa giữa buổi chiều nắng hạn…
Bầu trời xanh mờ lối rộng thênh thang
Giọt ăn năn rơi đầy sông quá khứ.

Kim Quang


Thứ Sáu, 29 tháng 11, 2013

Những Ngày Sau Khi Gặp Lại Kim




Thứ Bảy mình tôi qua quán cũ
Còn gởi bên em một chỗ ngồi
Biết đâu xuôi gió tôi về lại
Một tách café đủ nhớ đời

Một chút đời sau còn rướm lạnh
Em còn khăn áo tiếc sông xưa
Ai vô tình đứng im như núi
Đá cũng thời gian sẽ bụi mờ

Tường in bóng cũ treo nhan sắc
Mùa em thiếu phụ sáng như tranh
Gối tay chăn chiếu còn xao động
Đêm sợ ngày đi qua tóc xanh

Không hẹn nên lòng tôi lặng gió
Hừng đông thiếu ngủ nắng lưa thưa
Buồn thêm một chút cho tôi nhớ
Sương sớm vai người hôm tiễn đưa

Café chạm ướt môi thiên hạ
Thèm ấm dung nhan một tiếng cười
Mấy năm không gặp đời như đã
Lạc giữa sông dài em với tôi

Lâm Hảo Khôi
(19-11-13)

Nguyệt Xế


Ở bên này phương đông- giữa người thân lạ mặt
ở bên kia phương đoài-có kẻ lạ sao thân
Chợt nhớ những đêm dài-gà nhắc chừng giấc ngủ
Câu chuyện vẫn miệt mài-người đi vào máu mủ

Đơm ba bát cơm lưng-so chừng vài đôi đủa
Hạt đam mê thơm lừng-giấc ngậm ngùi hương lửa
Những bọt bèo - vang-bóng - lừng lững hạt sao sa
Đốm hoa về cõi mộng- ngã nón giấc lụa là

Loài sâu con ngủ mãi- giữa mùa đông heo may
Chờ tiết xuân sấm dậy- đôi cánh sẽ miệt mài
Thời sinh ra bướm lạ-chờ mùa mưa đi qua
Xếp nghiên đôi cánh mỏng-tơi tã phấn hương sa

Chỉ cần đôi cánh bướm-khơi dậy lòng thi nhân
Chỉ cần chút hương ướp-là nhận mặt số phần
Nghìn gương soi cũng lạ-nghìn tiếng lạ mà quen
Chưa từng đọ mặt nạ-thì chớ vội lên đèn

Loài sâu chưa mãn số-giấc ngũ đầy chiêm bao
Ta chiêm bao giấc ngũ-nghe ma quỹ thì thào
Rượu mấy tuần vẫn nhạt-tình chưa nhắp sao say
Ngục địa kín then cài-sao người lưu luyến mãi

Dẫu dậm trường trắc trở-tình nhiệt du ta qua
Người lạnh lùng ta lỡ-tình ngỡ gần nhưng xa
Ta gầy lại bếp tàn-cố nhen ngọn lửa ấm
Cho dù chút muộn màng-hạt than đỏ hút tăm

Rượu sủi bọt ly chim-bất kể tràn tay ướt
Nào mình ta nốc cạn-hương rượu yêu ta tìm
Đời mấy ai cạn đáy-một giọt chẳng dính ly
Tìm đâu tình nồng cháy-giọt cuối nào mấy khi

Áo vó câu dặm gởi-bụi phong trần đâu hay
Ta quên ta thay đổi-trút cạn bầu chưa say
Chợt nửa đêm nguyệt xế-thuốc cận đuôi bỏng tay
Mà dễ nào ta biết - tâm đã gởi phương đoài

Trương Văn Phú

Chiều Làng Em - Nhạc Trúc Phương- Ca Sĩ Mai Thiên Vân

      Tình yêu trai gái ở miền quê thôn dã,thật mộc mạc đơn sơ giản dị,nhưng sâu đậm, thấm đượm câu hò, bên bến nước dòng sông, có hàng dừa lặng lẽ, cùng cánh đồng lúa vàng tươi của buổi chiều tà trong làn khói lam nhè nhẹ, đã vẻ nên một bức tranh làng quê Việt Nam thanh bình êm ã



Nhạc Sĩ: Trúc Phương
Ca Sĩ: Mai Thiên Vân
Thực Hiện PPS: Nguyễn Thế Bình

Thứ Năm, 28 tháng 11, 2013

Mùa Đông Pleiku


Tôi như con chim nhặt bông cỏ trên đồng
Chiều chập choạng giật mình bay tìm tổ
Nghe xao xác cành nghiêng và lá đổ
Tiếng tàn thu và se lạnh đông về

Dã quỳ vàng rắc nắng ngập lối đi
Dìu dặt gió con bướm vàng bỡ ngỡ
Lại một mình thôi! Chiều loang hơi thở
Đông Pleiku – thương đến lạ ơi người!

Em xúng xính trong khăn quàng áo ấm
Thong thả gót, phố nghiêng nhìn ngơ ngẩn
Sương mỏng mảnh buông mờ bụi phấn
Vút tầng không mây trắng cánh bông xòe

Tôi tìm về hơi ấm giữa tình thương
Ly cà phê nồng nàn thơm đắng ngọt
Gặp chút lạnh mà xao lòng câu hát
Chín mùa đông cho môi má em hồng

Pleiku, 11/2013
Hương Ngọc

Bảy Điều Tôi Học Từ Cuộc Sống


1. Tôi đã học được từ cuộc sống: tôi không thể bắt người khác yêu mến mình, tất cả những điều tôi có thể lảm là cố gắng trở thành một người đáng được yêu mến..

Cuộc sống muôn màu, hãy biết sống và yêu thương nó.

2. Tôi đã học được từ cuộc sống: tôi có thể đúng khi giận dữ ai đó nhưng không thể chấp nhận bất cứ lý do nào cho việc tôi biến thành một kẻ tàn nhẫn với người khác...

3. Tôi đã học được từ cuộc sống: cho dù bạn bè tôi tốt như thế nào cũng sẽ có lúc họ làm tôi bị tổn thương và tôi phải biết tha thứ cho điều đó...

4. Tôi đã học được từ cuộc sống: trước khi muốn tha thứ cho người khác, tôi phải tập tha thứ cho chính bản thân mình...

5. Tôi đã học được từ cuộc sống: khi một người không yêu mến tôi như tôi như tôi mong muốn, không có nghĩa là họ không yêu mến tôi hết lòng...

6. Tôi đã học được từ cuộc sống: mình phải mất nhiều năm để tạo lòng tin nơi người khác nhưng lại có thể đánh mất nó chỉ trong một giây...

7. Tôi đã học được từ cuộc sống: tôi phải luôn cẩn trọng vì những lỗi lầm tôi gây ra trong một khoảnh khắc, có thể làm tôi hối hận cả một đời....

Vũ Thị Bạch Hằng Sưu tầm

Sư Phạm Vĩnh Long Họp Mặt Kỳ 15 Lớp 6 Khóa 8 -Bến Tre 2011



Quay phim và Thực Hiện: Huỳnh Hữu Đức 

Nhớ



Chiều trôi mấy lượt chiều trôi
ngậm ngùi nhìn dáng ngày đời dần phai
cơn mưa đ hạt thưa dày
mây giăng màu xám kín đầy hoàng hôn

Xanh xao khoảng trống tâm hồn
mà nghe nhưng nhức nỗi lòng nhớ nhau
người xa mấy dặm giang đầu
vời trông mòn mỏi nhịp cầu chung đôi

Vầng trăng lơ lửng buông lơi
Xác xao vàng võ còn vơi dáng ngà
đêm hoang vu, đêm ngừng qua
vọng tìm cuối nẽo người xa ngút ngàn

Cuộn dâng nỗi nhớ ngập tràn
chòng chành giấc ngủ chiếu chăn quạnh lòng
vòng tay ôm giữa hư không
giọt sầu rơi rụng cay nồng mắt khuya...

Trần Thị Dã Quỳ

Thơ Tranh: Café Một Mình


Thơ & Thơ Thanh: Nam Chi

Giọt Cà Phê Môi Em




Lá xanh như áo mới
Em qua đạp nắng vàng
Gót son dừng bước đợi
Cơn gió lẻ bay sang
Giọt thơ vương mái tóc
Long lanh mắt gợn tình
Em nhìn cây lá ướt
Tiếng chim gọi bình minh
Hoa tươi khoe sắc nhớ
Cà phê nhỏ giọt thương
Nụ cười thơm hoa nở
môi ngon mùi vấn vương
Em gieo chùm hạnh phúc
làm hoa bướm ngây say
Gió mân mê cảm xúc
nơi hồn anh nắng mai

Phạm Tương Như


Aug.  17  2013

Thứ Tư, 27 tháng 11, 2013

Kỹ Thuật Một Thời-Thơ Kim Phượng-Diễn Ngâm Hương Nam

Thương tặng Chị của em và tất cả Học Trò Chị 
Kỷ niệm một thời rất đỗi dễ thương! Ngày xưa và mãi mãi......


(Cho các học sinh Kỹ Thuật dễ thương của tôi!)
Bàn tay nào chép bài thơ
Ai người dám bảo văn thơ vụng về
Áo xanh lấp cả lối về
Em thêu lại những hẹn thề trên khăn


Ngây thơ mười sáu tròn trăng
Chàng Kỹ nghệ họa băn khoăn ngượng ngùng
Cổng vào dẫn lối đi chung
Ban Toán - Chuyên Nghiệp không chung một đường


Giờ học bài toán bình phương
Cộng thêm nhân lại, tình thương học trò
Qua rồi giờ học âu lo
Sân trường Kỹ Thuật thầy trò thung dung


Phượng hồng rực sắc não nùng
Trên cành hoa sứ trắng ngần đoan trang
Cầu yêu bắc nhịp đôi đàng
Mùa hè năm ấy ngỡ ngàng xa nhau


Bao năm còn đó nỗi đau
Thời gian phủ lấp đổi màu áo xanh!?
Bầy chim vỡ tổ lìa cành
Ngày xanh còn lại tình anh dại khờ


Thơ: Lê Thị Kim Phượng - Cựu Giáo Sư Kỹ Thuật
Diễn Ngâm:Hương Nam - Cựu Học Sinh Kỹ Thuật  
Hình Ảnh: 
Trương Kỳ Quốc - Lớp 12E, Niên khóa 1974-1975  
Trần Văn Hữu - Lớp 10 " i ", Niên khóa 1974-1975 
Thực Hiện: Kim Oanh

Nhân Đọc Haiku Mà Sinh Chuyện


      Nhân bài viết về thơ Haiku một thể thơ đặc trưng Nhật Bản của anh Huỳnh Hữu Đức, đăng hai bài trên trang nhà, tôi cũng được chút hứng nối ý.

      Dân Nhật thắm nhuần Thiền vị, kinh qua Phật Đạo, họ nhập Thiền cũng như Thiền thấu nhập họ, nên nghệ thuật cắm hoa thành hoa đạo, vào gươm đao trở nên kiềm đạo, vào thư họa nên môn phái Mặc Hội, vào văn thơ hiện thời chúng ta được thưởng thức thể thơ Haiku, nghe nói Tổng Thống Nga hiện thời cũng là cao thủ Haiku.

      Sau công nguyên, các đoàn quân của nước Nhật (ông cha mở mang bờ cõi), vượt biển sang Cao Ly (Triều Tiên), vào luôn Trung Hoa, khi trở về mang theo vật phẩm có cả dân hai nước Cao Ly và Trung Hoa làm người hầu cho giới quan lại. trong số người bị bắt dùng cho mọi công việc của Hoàng thân quốc thích có vài vị là Cao Tăng.
Đạo Phật vào Nhật bằng con đường đó, đúng vào nhu cầu tâm địa của dân Nhật, nên vào thời thái tử Shotoku (574-662) cầm quyền đã có 46 ngôi chùa, và số tăng ni 376 vị, thực ra chánh thức Đạo Phật xuất hiện vào năm 538 sau Công Nguyên.

      Hai dòng Thiền chánh truyền vào đất nước Phù Tang là:

      Dòng thiền Thanh Nguyên hành tư . Từ lục tổ Huệ Năng truyền dài đến thiền sư Tào Sơn (840 – 901) nên danh môn phái Tào Động Tông, truyền nhiều đời đến Đạo Nguyên (1004) truyền vào Nhật.

      Dòng Thiền Lâm Tế, cũng sau nhiều đời đến Sư Bạch Ẩn Huệ Hạc (1683-1768) truyền sang Nhật, vị này để lại cho đời bài thi mang tên Tọa Thiền Ca. Ngoài ra còn có Tông phái Hối Đường với vị sư khai sáng là Hối Đường Tổ Tâm (1024-1110) truyền cho Vinh Tây rồi cũng vào Nhật.

      Thơ riêng của Nhật là thể thơ Wata, Saigyo là nhà thơ lớn về thể thơ này cũng như thể thơ Renku (liên cú), Saigyo cũng là nhà sư du hành, đến đâu là thơ tuôn đến đấy, mãi đên gần 500 năm sau Saigyo mất Basho mới sinh ra, ông là đệ tử tục gia, và thơ thì vị thầy dìu dắt là Kitamura Kigin với thể thơ gọi là Haikai, ông vừa là nhà thơ cũng là nhà bình thơ danh tiếng thời đó, không uổng công truyền thừa, đệ tử Basho với cảm hứng sắc bén, tính cách du hành của tiền bối Saigyo, chúng ta có dòng thơ thiền vị hiện tiền HAIKU.

Tượng của Basho

      Tôi rất thich hai bài thơ Haiku của Basho qua dòng bút dịch của TUỆ-SĨ hiện ông là Hòa Thượng, nhà thơ, nhà văn học Phật giáo, thông thạo nhều ngoại ngữ, dịch nhiều thể loại sách, trong số đó có hai quyển Trung và Hạ Thiền Luận của Suzuki, mà ông biên dịch sau khi cụ Trúc Thiên vừa dịch, in xong quyển thượng thì lâm trọng bệnh qua đời
      Mời các bạn thưởng thức hai bài thơ Haiku của Basho qua nét dịch tài hoa đầy động cảm gợi tình thiền vị

Một cành cây trụi lá
Một con quạ đậu trên cành
Chiều thu sng
Một lữ khách
Xin gọi tên tôi là thế
Cơn mưa thu này
Một vũng lầy hiu hắt
Một con ếch nhảy vào
Và tiếng nước: Ôi chao!


      Và đây các bạn thưởng thức bài thơ của Saigyo, người mà năm trăm năm trước đã ảnh hưởng manh đến cách nhìn và vân du, Saigyo (Tây Hành)

Gió cuốn lên
Khói mờ trên Phú Sĩ
Bay mắt người xa xăm
Ai biết về đâu nhỉ
Cõi lòng tôi cùng lang thang


      Riêng với Basho, vốn tục gia đệ tử, học Thiền với Phật Đỉnh Quốc sư (Buccho Kokushi), một hôm Quốc Sư đến viếng ông rồi hỏi
- Lúc này con ra sao ?
Basho trả lời:
- Sau cơn mưa vừa qua rong rêu xanh hơn trước
Phật Đỉnh
- Trước khi rêu xanh thì Phật pháp là gì ?
Basho:
- Con ếch nhảy vào nước, kìa tiếng động

      Theo dân gian, người ta nói kể từ đó Haiku bắt đầu, bởi trước thời Basho Haiku chỉ là lối chơi chữ chứ không liên hệ chi đến đời sống, chỉ đến thời Basho cùng với Thiền tâm đã tạo nên những Haiku bất hủ, lay động tâm con người.

      Vào thời Vu Lan ghi lại, dựa theo hai quyển Thiền luận trung và hạ do Tuệ Sĩ dịch.

Trương Văn Phú


Thơ Tranh: Chiều Tà


Thơ & Chụp Ảnh: DTTN ( Biện Công Danh)
Thơ Tranh: Kim Oanh

Muối Mặn Gừng Cay



Ca dao muối mặn gừng cay
Bẻ ra hạt muối làm hai chấm gừng
Hai mình từ thuở người dưng
Gặp nhau là cứ ngập ngừng nhìn nhau


Bây giờ trầu quấn thân cau
Cau thì bổ sáu têm trầu quệt vôi
Trót đem muối xẻ làm đôi
Thì đừng nói chuyện chia phôi mai nầy


Ngàn năm gừng vẫn còn cay
Trăm năm hạt muối chia hai mặn lòng.



Vĩnh Trinh

Đêm Đêm Ngồi Ngắm Sao Trời



Đêm đêm ngồi ngắm sao trời
Hỏi lòng có phải là người Việt không?
Nếu dòng Hồng Lạc Tiên Rồng
Cớ sao lại phải sống rong xứ người?

Ngổn ngang dỡ khóc, dỡ cười
Nỗi buồn man mác không lời lâng lâng
Vong mệnh,vong quốc,vong thân
Cuộc đời dâu bể phong trần đôi vai

Thương cho thân phận lạc loài
Nỗi sầu viễn xứ biết ai thấu cùng?
Dẫu quê xa cách nghìn trùng
Lòng ta ôm ấp tâm trung bóng hình

Tuy nghèo ta vẫn thấy xinh
Ruộng đồng tươi tốt thắm tình quê hương
Vẫn còn nhớ những con đường
Ngày ngày cắp sách đến trường tung tăng

Màu hoa tim tím bằng lăng
Bụi tre xào xạc gốc măng sau nhà
Rung rinh dưới ánh trăng ngà
Hàng cây mướp đắng,khổ qua trên giàn

Ngày xuân lộng lẫy mai vàng
Những tràng pháo nổ rộn ràng đâu đây
Dẫu còn lưu lạc phương Tây
Phương Đông vẫn nhớ những ngày ấu thơ

Thời gian đâu có đợi chờ
Tóc xanh nay đã bạc phơ một màu
Chấp tay khấn nguyện trời cao
Tấc lòng thành được xin trao cho Người

Việt Nam thương nhớ muôn đời
Cánh chim phiêu lãng trên trời  bơ vơ

Lê Phạm Trung Dung
November 22, 2013

Hòn Non Bộ Tạc Từ Sách - Guy Laramee

Sách vở ích gì cho buổi ấy 
Áo cơm nghĩ lại thẹn thân già
(Xuân Nhật Thị Chư Nhi)
Nguyễn Khuyến

      Thật khó để tin những hòn non bộ này được khắc từ những cuốn sách bách khoa toàn thư. Nghệ sĩ Guy Laramee đã biến những cuốn sách thông tin nặng nề thành những phong cảnh núi non, hang động hùng vĩ. Những khối bê tông, những vách đá sừng sừng bổng trở nên mềm mại và uyển chuyển dưới bàn tay khéo léo của Guy Laramee.

      Có hai bộ tác phẩm theo chủ đề The Great Wall and Biblios – Vạn lý Trường Thành và Những cuốn sách ( ma thuật), được điêu khắc tỉ mĩ từ những cuốn sách cũ. Vì sao chủ đề lại là những núi đá? Chúng ta cùng nghe anh tâm sự:

      “Một núi kiến thức không được sử dụng nữa sẽ chỉ được gọi là “núi”. Núi khi bị xói mòn sẽ trờ thành những ngọn đồi, sau đó đó trở thành những đồng bằng và như nó chưa bao giờ tồn tại. Một khối đồ sộ các cuốn bách khoa toàn thư khi không sử dụng nữa thì nó nên trở về như bản chất của nó”

      Chuyên gia điêu khắc này đã tham gia trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật khác nhau. 30 năm lao động miệt mài, Laramee đã từng co nhiều hoạt động nghệ thuật bao gồm thiết kế nhạc cụ, sáng tác âm nhạc, hội họa, điêu khắc, sân khấu. Những hoạt động nghệ thuật tiếp đến của ông sẽ được tổ chức tại Galerie d’Artd’Outremont trong tháng 4 năm 2012.





































Guy Laramee
Đặng Anh Tuấn - Sưu tầm


Thơ Ngâm:U Tình - Thơ Vũ Hoàng Chương - Mai Hiên diễn ngâm (HQ)


Thơ: Vũ Hoàng Chương
Diễn Ngâm:Mai Hiên
Thực Hiện: Quang Võ

Cây Tre Trăm Mắt




Ngày xưa, có một anh nông phu nhà rất nghèo, phải đi ở cho một phú ông. Phú ông tính rất keo kiệt. Đối với kẻ ăn người ở, hắn có rất nhiều mánh khóe để bòn công mà không phải trả thêm tiền. Trong nhà hắn có một cô con gái chưa gả chồng. Thấy anh đầy tớ tuổi đã lớn mà chưa có vợ, hắn vờ vịt:

- Cứ cố làm việc đi con ạ! Lão sẽ gả con gái cho!

Vốn tính thật thà nên khi nghe lời đường mật của chủ, anh chàng bỗng nuôi hy vọng làm rể phú ông. Từ đó, anh đổ sức ra làm việc không biết mệt. Trời chưa sáng anh đã lội bì bõm ở ngoài đồng; cho đến tận khuya vẫn còn trần lực xay lúa giã gạo, kéo trục, bện thừng, v.v... Bao nhiêu công việc của chủ giao, dù khó khăn nặng nhọc thế nào, anh cũng không từ chối.

Phú ông thấy mưu mình đắt thì mừng lắm. Đứa con gái của lão đời nào lão lại chịu gả cho hạng người như anh. Lão đã nhận lời gả cho con một nhà giàu ở làng bên cạnh vừa mang trầu cau đến chạm ngõ.

Song để giấu anh, lão bắt mọi người phải giữ kín. Còn anh, anh vẫn không nghi ngờ gì cả, vẫn quần quật làm việc và gửi gắm hy vọng vào ông chủ.

Lật đật mà ngày cưới của cô gái đã đến. Hôm ấy trong nhà phú ông người ta bày bàn dọn ghế, giết lợn mổ gà tấp nập. Để cho anh đầy tớ khỏi sinh sự lôi thôi làm lỡ cuộc vui của con mình, phú ông gọi anh đến và bảo:

- Con làm việc khá lắm, lão rất ưng ý. Hôm nay lão đã sửa soạn cỗ bàn rồi đây. Nhưng mà con cũng phải có gì làm sính lễ mới được. Ta không đòi tiền bạc ruộng vườn gì cả. Cứ lên rừng chọn cây tre nào có một trăm đốt chặt mang về đây, lão sẽ cho làm lễ thành hôn. Nếu không có thì lão gả cho người khác đấy!

Anh chàng đứng ngẩn người ra một lúc, nhưng sau đó người ta thấy anh cầm rựa cắm cúi ra đi. Lên rừng, anh cố tìm những bụi tre cao rồi lách vào mà chặt. Nhưng mỗi một cây tre ngả xuống là một lần anh thất vọng. Tre trông cao ngất ngưởng là thế nhưng nhiều lắm cũng chỉ đến bốn mươi đốt là cùng.

Tuy vậy, anh vẫn không chịu nản. Anh lại luồn vào những nơi hiểm hóc có những bụi tre già, và mặc cho gai tre tua tủa cào rách cả áo, toạc cả da, anh vẫn không bận tâm, chỉ mong có một cây tre trăm đốt để mang về làm lễ dâng lên bố vợ. Anh giơ cao rựa chặt lấy chặt để. Nhưng tất cả những cây ngả xuống, đếm đi đếm lại cũng chỉ hơn những cây trước chừng dăm bảy đốt là cùng. Buồn rầu quá đỗi, anh quẳng rựa xuống đất, ngồi khóc nức nở.

Tiếng khóc của anh vang động cả núi rừng. Nghe tiếng khóc, Bụt hiện lên trước mặt, hỏi:

- Con là ai? Cớ sao lại ngồi đây mà khóc?

Anh gạt nước mắt kể lể sự tình cho Bụt nghe. Nghe đoạn, Bụt bảo:

- Con đừng khóc nữa. Hãy đi chặt lấy một trăm đốt tre mang về đây cho ta.

Anh nông phu lập tức làm theo lời Bụt dặn. Nhưng khi mang đủ một trăm đốt tre về, thì anh lại khóc:

- Sao con lại khóc?

Anh trả lời Bụt:

- Phú ông bảo con chặt cây tre có một trăm đốt, chứ không phải chặt một trăm đốt tre!

Bụt yên ủi, rồi bày cho anh sắp một trăm đốt tre lại thành một hàng và hô mấy tiếng: - "Khắc nhập! Khắc nhập!". Anh làm theo lời thì màu nhiệm thay, khi mấy tiếng hô vừa phát ra, anh đã thấy tất cả các đốt tre dính vào nhau như là từ một cây sinh ra vậy. Hết sức mừng rỡ, anh vội chạy lại định mang tre về, nhưng dù lấy hết gân sức, cũng không tài nào đỡ lên vai và quay trở được. Loay hoay mãi, cuối cùng anh buông tre rồi ngồi phịch xuống đất khóc. Bụt lại hỏi:

- Làm sao con lại khóc nữa?

- Cây tre dài quá, anh đáp. Con không làm sao mà đưa về nổi.

Bụt lại bảo anh hô lên mấy tiếng: - "Khắc xuất! Khắc xuất!". Anh vừa hô xong thì cũng mầu nhiệm không kém gì lần trước, những đốt tre tự nhiên rời ra ngay. Anh mừng quá, hết lời cảm ơn Bụt, rồi xếp tre làm hai bó, quảy ra khỏi cửa rừng.

Anh về đến nhà, giữa lúc hai họ đang cỗ bàn linh đình, cô dâu chú rể sắp bước vào lễ cưới. Anh lẳng lặng đặt gánh tre giữa sân rồi gọi phú ông ra nhận sính lễ. Thấy các đốt tre, phú ông vội quát:

- Tao bảo mày chặt cho được một cây tre trăm đốt, chứ có phải chặt một trăm đốt tre đâu! Rõ ngớ ngẩn!

Chẳng nói chẳng rằng, anh nông phu luôn miệng hô: - "Khắc nhập! Khắc nhập!". Các đốt tre lần lượt chạy ra khỏi bó rồi dính vào nhau thành một cây cao ngất nghễu. Phú ông tức mình chạy lại định lay cây tre cho nó rời ra, nhưng những tiếng "khắc nhập" từ miệng anh hô có phép làm cả người phú ông bỗng dính liền vào cây tre như là một đốt nối thêm vào vậy. Phú ông kêu la ầm ỷ. Tiếng kêu oai oái làm cho hai họ hốt hoảng đổ ra sân. Chàng rể là người đầu tiên chạy đến định gỡ cho hố vợ, nhưng hai tiếng "khắc nhập" của anh nông phu lại làm cho người hắn dính liền vào cây và đội phú ông lên đầu. Đến lượt ông thông gia đến gỡ con ra cũng bị dính vào nốt. Tiếp đó, họ nhà trai nhà gái cứ mỗi người xông vào gỡ là một lần bị dính cứng vào tre. Trong khi mọi người sợ xanh cả mắt thì anh đầy tớ vẫn bình thản đứng ở góc sân để đợi phú ông trả lời. Cuối cùng, phú ông đành phải van lạy xin được thả ra và hứa sẽ gả con gái cho anh, không dám nuốt lời nữa.

Bấy giờ anh chàng bèn hô lên mấy tiếng: - "Khắc xuất! Khắc xuất!". Lập tức, phú ông và mọi người rời khỏi cây tre. Sau đó chàng rể cùng họ nhà trai cắp gói ra về. Còn anh nông phu từ đó được vợ như mong ước[1].



  KHẢO DỊ 
Tình tiết người dính vào tre lằng nhằng một lũ tương tự với tình tiết người dính vào ngỗng kéo nhau đi một đoàn của một truyện cổ tích Đức do Grim (Grimm) sưu tầm: Con ngỗng vàng. Đại khái có một chàng ngốc vào rừng đốn củi, nhờ chia bánh và rượu cho một ông tiên trá hình nên được ông cho một con ngỗng có bộ lông bằng vàng (Trước đó, hai người anh của chàng ngốc vì xấu bụng không chia bánh và rượu nên chỉ bị thương mà không được gì). Về đến quán nghỉ có ba cô gái con chủ quán lần lượt đến định nhổ trộm lông nhưng bị dính chặt vào ngỗng. Anh mang ngỗng đi, kéo theo cả ba cô. Cha xứ và những người khác đến gỡ hộ cũng bị dính vào thành một chuỗi dài. Đến kinh đô, một công chúa cả đời không cười, thấy thế thì cười ầm lên. Để cho chàng ngốc không lấy được công chúa như đã hứa trước đây (gả công chúa cho người nào làm cho nàng cười được), vua lần lượt bắt anh phải uống một hầm rượu, ăn một núi bánh, chế ra một con tàu đi được cả trên cạn lẫn dưới nước. Nhờ có ông tiên, anh đã giải quyết được cả ba việc, và sau đó được kết duyên với công chúa[2].




Chú thích:

[1] Theo lời kể của người miền Bắc.

[2] Trong Truyện cổ dân gian của các dân tộc Việt-nam, tập IV, có kể truyện Con ngỗng kỳ lạ cũng có những nét gần với truyện trên. Như sau:

Một người nghèo đông con, một hôm lên rừng bỗng thấy một tiên ông đánh nhau với một con quỷ. Anh giương ná toan bắn vào quỷ. Quỷ sợ bỏ chạy. Tiên ông thoát nạn, tặng anh một con ngỗng, dặn khi nào đói thì bắc nồi lên bếp hô: - "Ngỗng vào nồi đi!" ngỗng sẽ rùng mình rụng hết lông nhảy vào nồi. Ăn xong bỏ xương lại một đống rồi hô: - "Ngỗng đứng dậy!" thì ngỗng sẽ sống lại. Từ đó nhà anh không lo đói.

Lão nhà giàu nghe tin anh có con ngỗng lạ, đòi mua nhưng anh không bán. Lão đến bắt trộm nhưng khi được ngỗng, dẫu hô hết hơi, ngỗng vẫn không làm theo ý mình. Tức mình lão dùng gậy đánh. Không ngờ gậy vừa giáng xuống thì dính liền vào ngỗng, còn đầu kia dính vào tay lão, không dứt ra được. Thấy lão kêu cứu, vợ lão chạy ra gỡ lại bị dính vào gậy, lũ con gái xông vào cũng bị dính nốt. Ngỗng lôi cả nhà lão nhà giàu ra chợ rồi lôi về nhà chủ. Anh chờ cho lão nhà giàu cầu khẩn chán chê mới hô mấy tiếng: - "Ngỗng vào nồi đi" để giải thoát cho lão nhà giàu và vợ con lão.

Chúng tôi ngờ rằng truyện này ít nhiều có chịu ảnh của chuyện kia.


Huỳnh Hữu Đức sưu tầm
( Theo  http://maxreading.com/ )

Thứ Ba, 26 tháng 11, 2013

Nguyên Chương, Tâm Khúc Thở Dài


1/Những Gì Còn Lại - Ca Sĩ Nguyên Khang

2/ Hình Như Là Tình Yêu - Ca Sĩ Anh Dũng
3/ Hãy Yêu Lại Từ Đầu - Ca Sĩ Thùy Dương

Nhạc Sĩ: Nguyên Chương
Cảm Tác Thơ: Kim Phượng
Thơ Tranh: Kim Oanh