Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2013

Ảnh Xưa Quảng Cáo Kem Hynos











Đỗ Đình Tiến Sưu Tầm 


Ảnh Xưa Vé Số Tombola

















Đỗ Đình Tiến Sưu Tầm 


Ảnh Xưa - Diêm Quẹt







Đỗ Đình Tiến Sưu Tầm


Thơ Tranh: Vương Buồn



Thơ: Về Chiều
Thơ Tranh: Kim Oanh


Bóng Hình Là Máu Thịt Tôi






ôm hình từ buổi sơ sinh
từ khi tiếng khóc bình minh cuộc đời
bóng hình là một trên đời
đừng ai chia cắt tách rời hai nơi
bóng hình là máu thịt tôi...

Trần Phù Thế
( Từ Tập Thơ Tình Trần Phù Thế)



Mừng Sinh Nhật Huỳnh Hữu Đức - 2010




Huỳnh Hữu Đức


Biết Trả Lời Sao



Anh muốn biết vì sao em như thế
Im lặng là khó hiểu phải không anh?
Có lẽ em đang chạy vòng quanh
Em cố tránh những gì không muốn tránh

Em vẫn bước với bao điều chan chứa
Như trăng trên trời chẳng chút nghĩ ngơi
Quay những vòng quay dù đã cũ rồi
Đi lại những đường đi mỗi bữa

Tim em đã mất rồi một nửa
Còn nửa nầy như lặng lẽ khát khao
Anh yêu ơi em phải trả lời sao?
Đành im lặng cho tình vào dang dở

DTTN(Biện Công Danh)

Bệnh Thống Phong, Ợ Chua, Viêm Xoan, Tiểu Đường - Bác Sĩ Nguyễn Y Đức

1/ Bệnh Thống Phong


2/ Bệnh Ngô Độc Thực Phẩm

3/ Bệnh Ợ Chua

4/ Bệnh Viêm Xoan

5/ Bệnh Tiểu Đường


Thực Hiện: Bác Sĩ Nguyễn Ý Đức 
Sưu Tầm: Nguyễn Lữ

Sự Tích Trái Dưa Hấu (Cổ Tích)








Đời xưa, thời vua Hùng Vương, đất nước ta có núi cao, có sông rộng, trời đẹp nắng vàng, nhưng đồng ruộng thưa thớt, hoa quả chưa có nhiều thứ thơm ngọt như bây giờ. Vua Hùng Vương thứ mười bảy có một người con nuôi là An Tiêm có tài tháo vát và có trí hơn người. Vua yêu mến An Tiêm thường ban cho của ngon vật quý.

Thói thường, các quan được một chút lộc vua thì nâng niu ca tụng; riêng An Tiêm thường bảo: "Của biếu là của lo, của cho là của nợ!" và xem thường các thứ ấy. Việc đến tai vua, vua giận lắm, bảo: "Đã thế ta cho nó cứ trông vào tài sức của nó xem có chết rũ xương ra không".
Thế là một buổi sớm, tự nhiên An Tiêm thấy lính đến giải cả chàng lẫn vợ con xuống thuyền, chẳng cho mang theo một cái gì hết. Chàng nói mãi chúng mới để cho đem một cái gươm cùn hộ thân. Buồm căng gió, thuyền tròng trành nhằm biển khơi thẳng tiến. Bãi cát trắng, vệt cây xanh trong bờ lần lượt khuất đi, rồi bèo bọt, rác rểu, dấu vết của dân cư cũng không còn nữa, bây giờ chỉ thấy trời với nước xanh ngắt một mầu.
Hôm sau thuyền đến một đảo nhỏ. Họ để gia đình An Tiêm lên bờ với năm ngày lương thực, một chiếc nồi, rồi nhổ neo quay lái. Nàng Ba, vợ An Tiêm, bế con nhìn theo chiếc thuyền dần dần ra xa rồi khuất mất, nước mắt nhỏ như mưa. Từ nay có bao giờ nàng lại được cùng hàng xóm chia nhau những bắp ngô đầu mùa, hay nói một câu chuyện gia đình dưới ánh trăng! Quay vào hòn đảo hoang vu nàng lại càng khiếp sợ hãi hùng, không biết rồi đây lấy gì mà ăn để sống tạm cho qua ngày tháng.

An Tiêm dắt vợ con tìm được một cái hốc đá ở tạm. Rồi chàng cắp gươm đi thăm dò. Hòn đảo quả thật hoang vu, chỉ có ít cây cỏ lơ thơ và mấy loài chim biển. Tìm mãi mới thấy vài thứ quả chát chua và rau dại ăn tạm cho đỡ đói. Từ đấy, ngày ngày An Tiêm trồng rau và tìm quả, nàng Ba thì ra bờ biển mò con ngao, cái hến. Đứa con lớn của An Tiêm bắt chước cha cũng cặm cụi làm bẫy đánh chim. Nhưng rồi chim dần dần quen bẫy, có khi suốt ngày thằng bé không bắt được một cái lông. Cá nhiều nhưng không lưới, quả thì có mùa. Cho nên thức ăn chính của vợ chồng con cái An Tiêm vẫn là mấy thứ rau dại mà chàng trồng thành rau vườn. Cuộc đời của bốn người vô cùng lao đao, vất vả, chẳng khác giống chim muông bao nhiêu. Tuy vậy An Tiêm vẫn tin rằng một ngày kia, mình có thể làm cho đời sống khá lên.
Một hôm có con chim đương ăn ngoài bãi thấy An Tiêm đến, vội bay đi, bỏ lại một miếng mồi đo đỏ. An Tiêm cầm lên xem thì là một mảnh quả dưa bằng hai ngón tay. Chàng nghĩ thầm chim ăn được có lẽ người cũng ăn được, bèn nếm thử thì thấy có vị ngọt. Chàng ăn hết miếng dưa và nhặt hạt gói lại. Ngồi nghỉ một lát thấy mát ruột, đỡ đói, chàng có ý mừng, lấy gươm xới một khoảnh đất mà gieo hạt xuống.
Ít ngày sau mấy hạt dưa mọc mầm đâm lá, bò tỏa ra khắp khoảnh đất. Nàng Ba cũng giúp chồng sớm chiều săn sóc mấy dây dưa lạ. Vợ chồng hồi hộp trông thấy mấy cái hoa đầu tiên hé nở, rồi hoa kết quả, lúc đầu bằng ngón tay út, ít lâu sau đã như con chuột, rồi con lợn con. Thấy nó lớn mãi như không bao giờ thôi, An Tiêm cũng không biết lúc nào nên hái.

Một buổi sớm tinh mơ, nghe tiếng quạ kêu ngoài bãi, nàng Ba bảo chồng:
- Ở đây hoang vắng, quạ không tụ họp bao giờ, nay chúng nó kêu inh ỏi một nơi, tất là có sự lạ. Anh ra xem thế nào!
An Tiêm ra đến bãi thì đàn quạ bay đi bỏ lại quả dưa chúng vừa mổ thủng vài nơi. Chàng cắt dưa về. Khi chàng bổ dưa ra, cả nhà lóa mắt vì mầu đỏ tươi của ruột dưa. Đây đó giữa mầu đỏ, có những hạt đen như hạt huyền và bọc ngoài một lớp vỏ trắng viền xanh. Hai đứa bé thèm nhỏ nước rãi, nàng Ba thì cứ tấm tắc khen quả trông ngon mắt. An Tiêm cẩn thận cắt cho mỗi người một mảnh nhỏ ăn thử. Bốn người như một, khen ngợi cái vị thanh ngọt, cái mùi thơm nhẹ nhàng của quả lạ, ăn vào không những không xót ruột lại còn thấy đỡ khát và khỏe người ra. Đến trưa, An Tiêm mạnh dạn bổ hết quả dưa cho con ăn đến no.
Bấy giờ cả nhà An Tiêm mừng rỡ, bồng bế nhau ra bãi, chọn những quả sẫm mầu da đem về, còn lại thì thay phiên nhau canh quả. Và từ đấy, họ cứ trồng thêm ra mãi. Tất cả nông cụ chỉ gồm có một cái gươm cùn và mấy hòn đá mài bén, vì vậy thêm một gốc dưa là thêm không biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt. Nhưng họ chăm sóc hết lòng, nhờ vậy giống dưa càng ngày càng sai, quả càng to, thịt dày thêm mãi, vỏ mỏng dần đi, vị càng thơm ngọt. Cứ mỗi lần hái dưa, An Tiêm lấy mấy quả đánh dấu thả ra biển. Dưa trôi biệt tăm tích không biết bao lần, trăng non rồi trăng già không biết bao bận, An Tiêm vẫn không ngã lòng. Quả nhiên một hôm có một chiếc thuyền ghé đến hỏi xem ai đã trồng được giống dưa quý, để đổi về đem bán trên đất liền. Từ đấy An Tiêm đổi được các thức ăn dùng thường ngày và còn cất được một cái nhà lá xinh xinh.
Về phần vua Hùng Vương, từ ngày bỏ An Tiêm ra hoang đảo, vua yên trí rằng An Tiêm đã chết rồi, đôi khi nghĩ đến cũng có bùi ngùi thương hại. Cho đến một ngày kia, thị thần dâng quả dưa lạ, vua ăn ngon miệng bèn hỏi thăm tung tích, mới biết là do An Tiêm trồng ngoài đảo. Vua ngẫm nghĩ thấy mình sai, cho thuyền ra đón gia đình An Tiêm. An Tiêm và nàng Ba mừng rỡ, thu lượm hết những quả dưa chín và hạt giống đem về phân phát cho bà con hàng xóm, và truyền dạy cách gieo trồng, chăm bón. Đó là nguồn gốc giống dưa hấu mà chúng ta ăn ngày nay.

Về sau khắp nước ta đều có giống dưa hấu. Nhưng người ta nói chỉ có huyện Nga Sơn là trồng được những quả ngon hơn cả, vì nơi ấy xưa là hòn đảo An Tiêm ở, trải qua mấy nghìn năm nước cạn, cát bồi nay đã liền vào với đất. 
 
Lời bình 

Truyện "Sự tích dưa hấu" thuộc nhóm truyện giải thích nguồn gốc của sự vật, ở đây là giống dưa hấu khá to, quả tròn có quả nặng 3 kg, 5 kg, ruột đỏ, vỏ xanh đậm, ăn ngọt mát, vừa có tác dụng giải khát, vừa có tác dụng bồi bổ sức khỏe. Tại sao lại có tên là dưa hấu? Theo một tài liệu có đăng trên tạp chí Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh số Tết Bính Tý, thì sở dĩ có tên "hấu" vì người Việt khi thấy một khách thương người Hoa vừa ăn dưa, vừa khen "hảo! hảo" nên nhại lại chệch âm thành hấu. Kỳ thực loại dưa này từng có tên khác là "Quả dưa đỏ" mà xưa kia hồi đầu thế kỷ 20 Nguyễn Trọng Thuật từng phóng tác thành tiểu thuyết. Tiếp đó vào những năm trước 1975, nhà văn Tô Hoài một lần nữa lại chuyển thể truyện cổ tích này thành tiểu thuyết với tên "Đảo hoang". Lại có lúc truyện được mang tên "Mai An Tiêm", với kiểu truyện dùng tên nhân vật chính. Và nhân vật chính ở đây lại là con nuôi vua Hùng thứ mười bảy. Như vậy tùy theo nhan đề truyện mà có hướng tiếp cận, tìm hiểu truyện khác nhau. Với nhan đề "Sự tích dưa hấu", truyện nghiêng về phía giải thích nguồn gốc sự vật. Còn với nhan đề "Mai An Tiêm", truyện lại nghiêng về phía nhân vật. Nhưng dù với nhan đề gì, thì truyện cổ tích này vẫn là một câu chuyện viết về nhân vật Mai An Tiêm với các phẩm chất luôn khẳng định bản tính tự lực cánh sinh, tin vào sức lao động của mình, bền bỉ kiên trì vượt qua mọi sự thử thách khắc nghiệt để tồn tại và phát triển. Nhờ nghị lực phi thường đó, chẳng những Mai An Tiêm đã thắng được sự thách đố của nhà vua mà còn tạo cho đất nước một loại cây quả quý giá: cây dưa hấu.

Câu chuyện gồm 3 phần: 

Phần 1. 
Từ đầu truyện đến "cho qua ngày tháng": nguyên cớ và sự việc An Tiêm bị đày ra hoang đảo
Mở đầu truyện giới thiệu nhân vật Mai An Tiêm: con nuôi vua Hùng Vương thứ mười bảy, "có tài tháo vát, có trí hơn người", được nhà vua yêu mến và thường ban cho của ngon vật lạ.
Nếu Mai An Tiêm cứ bằng lòng với cuộc sống như vậy thì chí ít cũng sung sướng an nhàn cho đến mãn đời. Chẳng đã có bao nhiêu người hễ được chút lộc vua thì nâng niu ca tụng đó sao? Và nếu vậy thì cũng chẳng có truyện "Sự tích dưa hấu".

Nhưng An Tiêm vì có tài trí hơn người, đâu chịu theo thói thường bo bo giữ nếp xu mị. Vốn tính thẳng, chàng nói ra ý mình: "Của biếu là của lo, của cho là của nợ", có nghĩa là nhận của biếu, của cho của người khác, cho dù đó là lộc vua đi nữa, vẫn cứ mắc nợ nần ân huệ của người cho, và người được cho phải lo trả nghĩa ân huệ đó, có khi lệ thuộc suốt cả cuộc đời. An Tiêm không muốn sống bằng cách hưởng thụ sự ban ân. Như thế thì cuộc đời còn gì là tự do nữa, và bản thân con người liệu có còn là con người nữa không, hay suốt đời chỉ là kẻ tôi tớ hèn mọn? Phải chăng đó chính là những suy nghĩ của Mai An Tiêm khi thốt ra khỏi miệng một câu nói thẳng như ruột ngựa: "Của biếu là của lo, của cho là của nợ".
Tất nhiên câu nói ấy sẽ đến tai nhà vua. Và phản ứng của nhà vua thật là quyết liệt: "Vua giận lắm, bảo: "Đã thế ta cho nó cứ trông vào tài sức của nó, xem có chết rũ xương ra không". "Thế rồi một buổi sớm, tự nhiên An Tiêm thấy lính đến giải cả chàng lẫn vợ con xuống thuyền, chẳng cho mang theo một cái gì hết. Chàng nói mãi, chúng mới để cho đem một cái gươm cùn để hộ thân". Vậy là chỉ vì một câu nói thẳng, gia đình Mai An Tiêm gồm 4 người (vợ chồng, thằng con lớn và đứa con nhỏ) bị đày ra hoang đảo giữa biển cả mịt mù, xa cách hẳn với xã hội loài người.

Tai họa đến từ một câu nói thẳng, một kiểu vạ miệng, và cũng đến từ lòng tự ái của một nhà vua đầy độc đoán và quyền uy. Nếu biết trước cái giá phải trả của một câu nói thẳng "đắt" đến thế, thì có lẽ Mai An Tiêm đã không nói. Nhưng như thế thì đâu còn là chàng Mai An Tiêm "có tài tháo vát, có trí hơn người", có lòng tự trọng cũng hơn người! Bỗng nhiên cả gia đình Mai An Tiêm rơi vào một thảm cảnh khắc nghiệt: có thể "chết rũ xương" ở chốn hoang đảo không nơi trú thân, không lương thực, vật dụng, nước uống. Cho nên nàng Ba, vợ An Tiêm "Quay vào hòn đảo hoang vu, nàng lại càng khiếp sợ hãi hùng,...". Nỗi khiếp sợ của người đàn bà bế con nhỏ ấy là có thật
  
Phần 2. 
Từ "An Tiêm dắt vợ con..." đến "một cái nhà lá xinh xinh": cuộc vật lộn để tự kiếm sống trên hoang đảo
Nơi hoang đảo, An Tiêm có điều kiện thể hiện một cách cụ thể nhất tài trí của mình chẳng những vì cuộc sống của bản thân chàng, mà còn vì cuộc sống của vợ con chàng nữa. Hãy xem tài và trí của An Tiêm được thể hiện như thế nào?
An Tiêm bình tĩnh cắp gươm đi thăm dò, tìm rau dại, tìm quả dại. Vợ An Tiêm mò ngao, mò hến. Đứa con lớn làm bẫy đánh bắt chim. Như vậy cả gia đình An Tiêm sống bằng săn bắt, hái lượm, bằng những vật hoang dại có trên hòn đảo. "Cuộc sống của bốn người vô cùng lao đao, vất vả, chẳng khác giống chim muông bao nhiêu". "Tuy vậy An Tiêm vẫn tin là một ngày kia, mình có thể làm cho đời sống khá lên". Niềm tin ấy lóe lên bất ngờ giữa nơi hoang đảo, đúng là niềm tin của cổ tích, ca dao: "Chớ than phận khó ai ơi, Còn da lông mọc, còn chồi nảy măng". Như vậy trước Robinson Cruso, nhân vật trong truyện cùng tên của nhà văn Anh Daniel Defo (1660 - 1731) gần hai chục thế kỷ nhân vật Mai An Tiêm của nước Văn Lang dưới triều đại các vua Hùng đã vật lộn để trụ vững trên hoang đảo.

Rồi niềm tin về một cuộc sống sẽ khá hơn bắt đầu trở thành hiện thực khi Mai An Tiêm phát hiện ra "một mảnh quả dưa bằng hai ngón tay". "Chàng nghĩ thầm: chim ăn được có lẽ người cũng ăn được, bèn nếm thử thì thấy có vị ngọt". Chi tiết này nói lên Mai An Tiêm thật là thông minh, có trí hơn người ở cách suy luận có lý. Và cái tài của An Tiêm cũng lộ rõ ở việc An Tiêm "lấy gươm xới một khoảnh đất mà gieo hạt xuống". Nhờ vậy mà mấy hạt dưa nhặt được đã mọc mầm, đâm lá, bò tỏa rồi ra hoa, kết trái, thành một vườn dưa trồng lúc nào không biết, biến hòn đảo hoang vu thành một hòn đảo dưa trồng ngon quý. "Tất cả nông cụ chỉ gồm có một cái gươm cùn và mấy hòn đá mài bén..." nhưng nhờ sự lao đồng cần cù, sự bền bỉ kiên trì của Mai An Tiêm nên "giống dưa càng ngày càng sai, quả càng to, thịt dày thêm mãi, vỏ mỏng dần đi, vị càng thơm ngọt". Hóa ra "Bài ca vỡ đất" của nhà thơ Hoàng Trung Thông sáng tác khoảng năm 1950 với những câu: "Bàn tay ta làm nên tất cả, Có sức người sỏi đá cũng thành cơm", lại được Mai An Tiêm thể nghiệm từ những năm dưới thời các vua Hùng.
Mai An Tiêm trở thành người anh hùng của lao động sáng tạo và đồng thời là người anh hùng sáng tạo văn hóa miệt vườn nữa.
Ở phần này cái trí của An Tiêm lại một lần nữa được thể hiện khi "cứ mỗi lần hái dưa, An Tiêm lấy mấy quả đánh dấu thả ra biển. Dưa trôi biệt tăm tích không biết bao lần, trăng non rồi trăng già không biết bao bận, An Tiêm vẫn không ngã lòng". Tại sao An Tiêm lại cứ thả dưa trôi biển như thế? Vì An Tiêm muốn về lại với xã hội loài người, muốn tìm đến sự giao lưu, trao đổi. Tất cả những lao động sáng tạo vất vả, cực nhọc của An Tiêm và gia đình cũng chỉ vì một mục đích như thế: thoát khỏi cảnh đày ải, trở về với cuộc sống con người bình thường, cuộc sống của cộng đồng. Ở đảo hoang bốn bề xa vắng, nếu không đánh dấu thả dưa trôi biển, thì liệu đến kiếp nào An Tiêm mới gặp lại được xã hội loài người. Cách thực hiện sự giao tiếp của An Tiêm thật thông minh mà nhiều đời sau khi chưa có phương tiện phát sóng truyền tin, những người đi biển vẫn thường sử dụng bằng cách nhắn tin bỏ vào những chai thủy tinh nút kín, thả trôi trên biển. Và quả nhiên khi các thuyền buôn nhiều nơi đến với hoang đảo, gia đình Mai An Tiêm đã có được thức ăn dùng thường ngày và còn cất được "một cái nhà lá xinh xinh" nữa.

Phần 3. 
Đoạn còn lại: Mai An Tiêm được đón trở về đất liền
Mai An Tiêm đã phải vật lộn với thiên nhiên hoang dã để mong có ngày trở về với xã hội con người. Vì vậy mà mới có chuyện An Tiêm thả dưa xuống biển. Có thể nói An Tiêm đã tự mình tìm về được với xã hội con người khi những thuyền buôn đến đảo để trao đổi vật dụng với những trái dưa ngon quý. Nhưng tại sao nhà vua lại "ngẫm nghĩ thấy mình sai, cho thuyền ra đón gia đình An Tiêm"?. Vì nhà vua hiểu nhầm câu nói thẳng của An Tiêm. Nhà vua nghĩ rằng An Tiêm coi thường các thứ vua ban, nghĩ rằng An Tiêm là kẻ vô ơn, bạc nghĩa, có chết rũ xương cũng đáng. Kỳ thực câu nói của An Tiêm tựa như một câu tục ngữ, có ý nghĩa khái quát xác đáng: "của làm ra để trên gác, của cờ bạc để ngoài sân, của phù vân để ngoài ngõ". Cho đến khi An Tiêm tự lực cánh sinh chứng minh được chân lý đó thì nhà vua mới tỉnh ngộ, và sửa sai bằng cách cho thuyền ra để đón cả nhà An Tiêm về đất liền.
Cũng như nhiều truyền thuyết khác kể về thời dựng nước của các vua Hùng, truyện "Sự tích dưa hấu" giải thích thêm nguồn gốc một sản vật quý của đất nước cũng xuất hiện ở thời Hùng Vương. Câu chuyện còn minh họa cho tục ngữ của người Việt đúc kết kinh nghiệm sống. Câu chuyện có thể là một chứng tích mở đầu cuộc phiêu lưu trên biển đầu tiên của người Việt cổ, với những chi tiết phong phú, sống động. Có lẽ vì thế mà nhiều nhà văn Việt Nam hiện đại chọn lựa đề tài này để phóng tác thành tiểu thuyết nói về thời quá khứ xa xưa của dân tộc Việt.

Chu Huy
Nguồn: saga.vn
Huỳnh Hữu Đức Sưu Tầm



Tiếng Sông Hương - Phạm Đình Chương

Cơn bão Haiyan đang tràn vào bờ biển miền Trung. Xin hãy cầu nguyện an lành cho đồng bào khốn khổ



Sáng tác: Phạm Đình Chương
Tiếng hát và Thực hiện: Suối Dâu
Ảnh: Sưu tầm trên internet

Hùng Ca Sử Việt 1 : Lời Mở Đầu & Đồng Bào


Phần 1
Lời Mở Đầu




Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

Lý Thường Kiệt


Sông núi nước Nam, vua Nam ở,
Rành rành định phận tại sách Trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời

Mục Lục

Lời Mở Đầu
Đồng Bào
Phù Đổng Thiên Vương
Tiếng Hờn Sông Hát
Nhuỵ Kiều Tướng Quân
Mai Hắc Đế
Bố Cái Đại Vương

Lời Mở Đầu


         Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, đều có niềm tự hào, hãnh diện của nòi giống. Dân Việt ta lại càng hãnh diện hơn khi có những Tiền Nhân cân quắc anh thư, là những anh hùng xuất chúng.
         Là một nước nhỏ bé nằm kề cận một nước lớn Trung Hoa, luôn tìm cách xâm chiếm và đồng hoá, thế mà vẫn kiên cường bất khuất. Trong suốt mấy ngàn năm luôn bị phương bắc xâm lược, Tổ Tiên ta vẫn giữ vững văn hoá dân tộc, để con cháu đời sau luôn hãnh diện tự hào: đất nước ta có hơn 4.000 năm văn hiến. Tiền Nhân luôn nêu gương sáng  cho hậu thế, giữ vững truyền thống bảo vệ tổ quốc, bảo vệ giang san, không làm tay sai cho giặc  như câu nói của Vua Lê Thánh Tông:
“Một thước núi, một tấc sông của ta không nên vất bỏ... Nếu ngươi dám lấy một thước, một tấc đất của Thái Tổ (Vua Lê Lợi) mà đút mồi cho giặc thì tội phải tru di...”        (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
         Lịch sử Việt Nam nếu tính từ lúc có mặt con người sinh sống thì đã có hàng vạn năm trước Công nguyên, còn tính từ khi đất nước được hình thành thì mới khoảng từ hơn 4000 năm trước đây
         Những người Việt Tiền Sử trên vùng châu thổ sông Hồng sông Mã đã khẩn đất, chế ngự nước lụt của các sông,  phục vụ cho việc trồng lúa và đã tạo nên nền văn minh lúa nước.
        Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Vua Thần Nông (một trong Tam Hoàng của Huyền Sử Trung Hoa vốn  người gốc Phương Nam) là tổ tiên của dân tộc Việt, đã đem cách trồng lúa ở phương Nam ra truyền dạy lại cho người phương Bắc.
         Khu vực trung du bắc phần Việt Nam đã có người ở từ thời kỳ Đồ Đá Cũ (Thời Tiền Sử). Các nhà khảo cổ đã tìm ra các dấu vết người Vượn cư ngụ tại Lạng Sơn, Ninh Bình và Thanh Hoá cách đây hàng trăm nghìn năm. Thời kỳ này mực nước biển thấp hơn, và Việt Nam khi đó nối liền với đảo Hải Nam, bán đảo Mã Lai, Indonesia, với khí hậu ẩm và mát hơn bây giờ.
         Do chính đặc trưng về địa chất nên vùng đồng bằng sông Hồng, vịnh Bắc Việt không có điều kiện khai quật nền đất cổ đại có ở khoảng 8000 năm trước Công Nguyên (trước khi có đại hồng thủy) để xác nhận dấu vết của các nền văn minh khác nếu có. Trang sử Việt có một khoảng trống không xác định được từ khoảng năm trước 5500 năm - 18000 năm trước.
        Qua những khảo cứu trên, Thuỷ Tổ Tộc Việt không phải chỉ xuất xứ từ nam sông Hoàng Hà, vì thế mới có một nền văn minh riêng, ngôn ngữ riêng, không hề giống với tiếng nói của các dân tộc Đông Á.                                          
         Đó chính là sắc thái riêng, bản chất riêng được gìn giữ và lưu truyền trong tâm khảm của người Dân Việt.                                                               
          “Anh Hùng Ca Đất Việt" nói về những bậc Anh    Hùng Dân Tộc Việt Nam. Cấu trúc mỗi truyện được chia làm hai phần, phần đầu được kể như truyện cổ tích, phần sau tóm lược Bối Cảnh Lịch sử đương thờ. Phần lớn nội dung được Biên Soạn từ "Đại Việt Sử Ký Toàn Thư" của Lê Văn Hưu, Phan Thu Tiên, Ngô Sĩ Liên.., “Lĩnh Nam Chích Quái”của Trần Thế Phát(?), "Việt Nam Sử Lược" của Trần Trọng Kim, cùng tham khảo một số bài viết trong các trang Web trên  google (vì quá nhiều nên không thể nhớ đưa hết vào đây. Mong Các Vị thông cảm)… 
 Huỳnh Hữu Đức Biên Soạn
---------------------------------
                                                                     Đồng Bào
Thế giới này, chỉ duy nhất dân tộc ta mới có từ "Đồng Bào" (cùng chung một bọc) mà thôi. Hai tiếng thật thân yêu, nói lên tình ruột thịt của Người Việt. Kinh Thượng một dòng máu, một tổ tiên, một cội nguồn.
Trong dân gian luôn truyền tụng câu chuyện Một Mẹ Trăm Con từ đây…
Thuở xa xưa, cách đây lâu đời lắm, ở Lĩnh Nam có một thủ lĩnh tên là Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương Vương, sức khoẻ tuyệt trần, lại có tài đi lại dưới nước như đi trên cạn. Một hôm, Kinh Dương Vương đi chơi hồ Ðộng Ðình, gặp Long Nữ là con gái Long Vương, hai người kết thành vợ chồng và ít lâu sau sinh được một trai, đặt tên là Sùng Lãm.
Lớn lên Sùng Lãm rất khoẻ, một tay có thể nhấc bổng lên cao tảng đá hai người ôm. Cũng như cha, Sùng Lãm có tài đi lại dưới nước như đi trên cạn. Khi nối nghiệp cha, chàng lấy hiệu là Lạc Long Quân.
Lúc bấy giờ ở đất Lĩnh Nam còn hoang vu, không một nơi nào yên ổn, Lạc Long Quân quyết chí đi du ngoạn khắp nơi.
Ðến vùng bờ biển Ðông Nam, Lạc Long Quân gặp một con cá rất lớn. Con cá này đã sống từ lâu đời, mình dài hơn năm mươi trượng, đuôi như cánh buồm, miệng có thể nuốt chửng mười người một lúc. Khi nó bơi thì sóng nổi ngất trời, thuyền bè qua lại đều bị nó nhận chìm, người trên thuyền đều bị nó nuốt sống. Dân chài rất sợ con quái vật ấy. Họ gọi nó là Ngư tinh.
Chỗ ở của Ngư tinh là một cái hang lớn ăn sâu xuống đáy biển, trên hang có một dãy núi đá cao ngăn miền duyên hải ra làm hai vùng.
Lạc Long Quân quyết tâm giết loài yêu quái, trừ hại cho dân, Lạc Long Quân đóng một chiếc thuyền thật chắc và thật lớn, rèn một khối sắt có nhiều cạnh sắc, nung cho thật đỏ, rồi đem khối sắt xuống thuyền chèo thẳng đến Ngư Tinh, Lạc Long Quân giơ khối sắt lên giả cách như cầm một người ném vào miệng cho nó ăn. Ngư Tinh há miệng đón mồi. Lạc Long Quân lao thẳng khối sắt nóng bỏng vào miệng nó. Ngư Tinh bị cháy họng vùng lên chống cự, quật đuôi vào thuyền của Lạc Long Quân. Lạc Long Quân liền rút gươm chém Ngư Tinh làm ba khúc. Khúc đầu hoá thành con chó biển. Lạc Long Quân lấy đá ngăn biển chặn đường giết chết con chó biển, vứt đầu lên một hòn núi, nay gọi hòn núi ấy là Cẩu Ðầu Sơn, khúc mình của Ngư Tinh trôi ra xứ Mạn Cẩu, nay còn gọi là Cẩu Ðầu Thủy, còn khúc đuôi của Ngư Tinh thì Lạc Long Quân lột lấy da đem phủ lên hòn đảo giữa biển, đảo ấy nay còn mang tên là Bạch Long Vĩ.
Trừ xong nạn Ngư Tinh, Lạc Long Quân đến Long Biên. ở đây có con cáo chín đuôi sống đến hơn nghìn năm, đã thành tinh. Nó trú trong một hang sâu, dưới chân một hòn núi đá ở phía Tây Long Biên. Con yêu này thường hoá thành người trà trộn trong nhân dân dụ bắt con gái đem về hang hãm hại.
Một vùng từ Long Biên đến núi Tản Viên, đâu đâu cũng bị Hồ Tinh hãm hại. Nhân dân hai miền rất lo sợ, nhiều người phải bỏ cả ruộng đồng, nương rẫy, kéo nhau đi nơi khác làm ăn.
Lạc long quân thương dân, một mình một gươm đến sào huyệt Hồ tinh, tìm cách diệt trừ nó.
Khi Lạc Long Quân về đến tới cửa hang, con yêu tinh thấy bóng người, liền xông ra, Lạc Long Quân liền hoá phép làm mưa gió, sấm sét vây chặt lấy con yêu. Giao chiến luôn ba ngày ba đêm, con yêu dần dần yếu sức, tìm đường tháo chạy, Lạc Long Quân đuổi theo chém đứt đầu nó. Nó hiện nguyên hình là một con cáo khổng lồ chín đuôi. Lạc Long Quân vào hang cứu những người còn sống sót, rồi sai các loài thuỷ tộc dâng nước sông Cái, xoáy hang cáo thành một vực sâu, người đương thời gọi là đầm Xác Cáo, đời sau mới gọi là Tây Hồ.
Dẹp yên nạn Hồ Tinh nhân dân quanh vùng lại trở về cày cấy trên cánh đồng ven hồ, và dựng nhà lập xóm trên khu đất cao nhất gọi là làng Hồ, đến nay vẫn còn.
Thấy dân vùng Long Biên đã được yên ổn làm ăn Lạc Long Quân đi ngược lên vùng rừng núi đến đất Phong Châu. ở vùng này có một cây cổ thụ gọi là cây chiên đàn, cao hàng nghìn trượng, trước kia cành lá sum suê tươi tốt che kín cả một khoảng đất rộng, nhưng sau nhiều năm, cây khô héo, biến thành yêu tinh, người ta gọi là Mộc Tinh.

Con yêu này hung ác và quỷ quyệt lạ thường. Chỗ ở của nó không nhất định, khi thì ở khu rừng này, khi thì ở khu rừng khác. Nó còn luôn luôn thay hình đổi hạng ẩn nấp khắp nơi, dồn bắt người để ăn thịt. Ði đến đâu cũng nghe thấy tiếng khóc than thảm
thiết, Lạc Long Quân quyết ra tay cứu dân diệt trừ loài yêu quái. Lạc Long quân phải luồn hết rừng này đến rừng kia và qua nhiều ngày gian khổ mới tìm thấy chỗ ở của con yêu. Lạc Long Quân giao chiến với nó trăm ngày đêm, làm cho cây long đá lở, trời đất mịt mù mà không thắng được nó. Cuối cùng Lạc Long Quân phải dùng đến những nhạc cụ như chiêng, trống
nó khiếp sợ và chạy về phía Tây Nam, sống quanh quẩn ở vùng đó, người ta gọi là Quỷ Xương Cuồng.
Diệt xong được nạn yêu quái, Lạc Long Quân thấy dân vùng này vẫn còn đói khổ thiếu thốn, phải lấy vỏ cây che thân, tết cỏ tranh làm ổ nằm bèn dạy cho dân biết cách trồng lúa nếp, lấy ống tre thổi cơm, đốn gỗ làm nhà sàn để ở, phòng thú dữ. Lạc Long Quân còn dạy dân ở cho ra cha con, vợ chồng. Dân cảm ơn đức ấy, xây cho Lạc Long Quân một toà cung điện nguy nga trên một ngọn núi cao. Nhưng Lạc Long Quân không ở, thường về quê mẹ dưới thủy phủ và dặn dân chúng rằng: "Hể có tai biến gì thì gọi ta, ta sẽ về ngay! "
Lúc bấy giờ có Ðế Lai từ phương Bắc đem quân tràn xuống phương Nam. Ðế Lai đem theo cả người con gái yêu rất xinh đẹp của mình là Âu Cơ và nhiều thị nữ. Thấy Lĩnh Nam phong cảnh tươi đẹp, lại nhiều chim muông, nhiều gỗ quý. Ðế Lai sai quân dựng thành đắp lũy định ở lâu dài. Phải phục dịch rất cực.



khổ, nhân dân chịu không nổi, hướng về biển Ðông gọi to: "Bố ơi! Sao không về cứu dân chúng con!". Chỉ trong chớp mắt, Lạc Long Quân đã về.
Nhân dân kể chuyện, Lạc Long Quân hoá làm một chàng trai rất đẹp, có hàng trăm đầy tớ theo hầu, vừa đi vừa hát đến thẳng chỗ Ðế Lai ở. Lạc Long Quân không thấy Ðế Lai đâu cả, mà chỉ thấy một cô gái nhan sắc tuyệt trần cùng vô số thị tỳ và binh lính. Cô gái xinh đẹp đó là Âu Cơ. Thấy Lạc Long Quân uy nghi tuấn tú nàng đem lòng say mê, xin đi theo Lạc Long Quân. Lạc Long Quân đưa Âu Cơ về ở trong cung điện của mình, trên núi cao.

Ðế Lai về, không thấy con gái đâu, liền sai quân lính đi tìm khắp nơi. Hết ngày này qua ngày khác. Lạc Long Quân sai hàng vạn các ác thú ra chặn các nẻo đường, xé xác bọn chúng làm cho chúng khiếp sợ bỏ chạy. Ðế Lai đành thu quân về phương bắc.
Bấy giờ nàng Âu Cơ mang thai, trải ba năm, ba tháng, mười ngày, thấy trên núi Nghĩa Lĩnh có mây lành ngũ sắc xán lạn. Đến giờ Ngọ, ngày 25 tháng 12 năm Giáp Tý, Âu Cơ thấy bào thai chuyển động. Đến giờ Ngọ, ngày 28, hương lạ đầy nhà, hào quang khắp phòng, bà sinh một bọc bạch ngọc, hương lạ giáng xuống. Bắt đầu sinh ở núi Ngũ Lĩnh, đất Thổ Thứu phong, ao sen đỉnh ngọc.

Lạc Long Quân thấy bà sinh ra bọc lạ, cho là xưa nay chưa có, việc lạ trong nước, bèn triệu văn võ bách quan trong triều vào chầu chính điện. Lúc ấy, giờ Ngọ, bỗng thấy trong thành giữa trời có ba tiếng
hiệu lệnh làm chuyển động trời đất, sông núi, cỏ cây, vạn vật kinh sợ. Mây lành ngũ sắc sáng đầy khắp ba nghìn thế giới. Trên thượng điện, vạn chim bay, ngư, lân tụ hội theo gió mưa cống triều.
Ngài thấy quốc gia có điềm lạ khác thường, xuống chiếu cho các quan văn võ chỉnh đốn ý mạo, chay khiết lòng thành, tề tựu tại điện Kính Thiên, thắp hương đèn phùng chầu triều bái Hoàng Thiên Thượng Đế đến Tứ phủ vạn linh.

Tới giờ Thân hôm ấy, bỗng thấy một áng mây xanh từ hướng Tây kéo đến, tụ tại thềm rồng của điện Kính Thiên, tự nhiên có bốn vị tướng xuất hiện kỳ lạ, cao hơn trượng rưỡi, đầu đội mũ hoa, thân mặc bào xanh gấm vóc, eo thắt đai ngọc, chân đi hài sắt, miệng cười như hào quang sáng rực, mây tuôn cuồn cuộn, tay cầm một chiếc long bài (sắc) của Ngọc Hoàng
Thượng Đế: Ban cho Hiền Vương một bọc trăm trứng, sinh nơi ngọc khuyết, thành trăm người con trai trị nước. Nay sai bốn vị Đại Thiên vương giúp đỡ, che chở cho nước. Vậy ban sắc!.

Lạc Long Quân chiếu theo long bài, truyền các quan văn võ ngẩng mặt bái tạ trời, bái tạ Thiên vương.
Thiên vương nói:
- Trăm trứng ngọc bào do điềm rồng giáng sinh, thiên sứ báo cho Hiền Vương biết, hãy đặt vào bàn vàng, mang đến chùa Cổ Viễn Sơn, tên là Từ Sơn Thiên Quang Hòa Thượng Thiền Thứu Lĩnh (về sau đổi là Thiên Quang Thiền tự) đặt ở trong chùa, chọn lấy vị quan trai giới chầu trực, thắp hương không dứt.
Bọc đó vỡ ra, Lạc Long Quân bèn đỡ lấy thì bốn vị Đại Thiên Vương tự nhiên biến hóa, Hiền Vương càng thành tâm cầu đảo. Đến giờ Ngọ, ngày rằm 15 tháng Giêng, trăm trứng vỡ ra đều thành trăm người con trai; rồng thành năm sắc, điềm ứng sáng ngời, hương trời giáng xuống, đầy khắp núi sông. Được khoảng một tháng, không phải bú mớm mà tự trưởng thành. Tất cả các con đều có hình dáng đẹp lạ, tướng mạo phương phi, anh hùng nổi tiếng ở đời, cao lớn ba thước bảy tấc.

Lạc Long Quân triệu 6 nàng cung phi, giao phát gấm lĩnh, cắt may thành trăm bộ áo mũ cấp cho trăm người con trai. Cả ngày trăm con vui cười, thường lấy lá hoa ao sen đùa nghịch. Sau 100 ngày, các con khôn
lớn, không nói mà hay cười. Qua 200 ngày, đến giờ Thìn ngày 20 tháng 7, cả trăm người con trai đều cười to, nói rằng:
Trời sinh Thánh Vương trị nước, giúp bốn biển thanh bình, quốc gia yên vui, là trăm hoàng tử đều ở thềm rồng điện thượng. Bỗng thấy một đám mây ngũ sắc từ không trung giáng xuống thềm rồng.
Lạc Long Quân thấy tám vị Thiên tướng, đầu đội mũ đồng, mình mặc thiết giáp, chân đi hài bạc, eo thắt dải rồng, dung mạo xán lạn, mắt sáng như sao, miệng xuất hào quang, tay cầm thần kiếm, linh trượng, bảo trữ, thiết phủ, đứng hầu hai bên tả hữu; hai bên đối chầu, hư không biến hóa, gió mưa ập đến, bay vượt nhiễu không trung trong điện Ngũ Lĩnh, rồi núi non thất hình, sông hồ sóng dâng trào.
Sau ba giờ ánh sáng rực rỡ, tám vị tướng mới xưng danh làm tám bộ Kim Cương, vâng sắc của Thượng Thiên chư Phật, Bảo Đế lệnh sai giáng xuống che chở cho trăm người con trai. Nay tất cả đã trưởng thành, hiểu biết nên tám vị tướng phụng mệnh đưa các vương tử đến cửa khuyết bái tạ Hoàng phụ, cai trị trong nước.
Tám vị tâu xong, bay lên trời biến mất. Tám vị ban cho Lạc Long Quân một chiếc long bài, một chiếc thiên bảo thần ấn, một viên bạch ngọc, một chiếc thần kiếm, một quyển thiên thư, một chiếc thước ngọc, một chiếc bàn vàng đặt ở trong điện. Hiền Vương nhận lấy, cho đây là trời ứng điềm lành, giúp yên trong nước.
Vua thấy trăm người con trai bỗng nhiên cao lớn, thân dài bảy thước ba tấc, mỗi người cầm một vật thiên bảo thần khí chia nhau đứng hầu hai bên tả hữu, bái tạ Hoàng phụ.



Ngài xuống chiếu rằng: Trời sinh trăm người con trai, đều văn võ thánh thần, anh hùng tài lược giúp nước yên bình, thiên hạ cậy nhờ bởi ơn giáo hoá, phụ tử quân thần cùng nhau vui hưởng”.
Hàng chục năm trôi qua, Lạc Long Quân sống đầm ấm bên cạnh đàn con, nhưng lòng vẫn nhớ thuỷ phủ. Một hôm Lạc Long Quân từ giã Âu Cơ và đàn con, hoá làm một con rồng vụt lên mây, bay về biển cả. Âu Cơ và đàn con muốn theo Lạc Long Quân, nhưng không đi được, buồn bã ở lại trên núi. Hết ngày này qua ngày khác, họ mỏi mắt trông chờ mà vẫn biền biệt tăm hơi. Không thấy Lạc Long Quân trở về. Nhớ chồng quá, Âu Cơ đứng trên ngọn núi cao hướng về biển Ðông lên tiếng gọi:
"Bố nó ơi! Sao không về để mẹ con chúng tôi sầu khổ thế này".
Lạc Long Quân trở về tức khắc. Âu Cơ trách chồng:
- Thiếp vốn sinh trưởng ở núi cao, động lớn, ăn ở với chàng sinh được trăm trai, thế mà chàng nỡ lòng bỏ đi, để mặc mẹ con thiếp sống bơ vơ khổ não.
Lạc Long Quân nói:
Ta là loài rồng, nàng là giống tiên, khó ở với nhau lâu dài. Nay ta đem năm mươi con về miền biển, còn nàng đem năm mươi con về miền núi, nếu gặp sự nguy hiểm thì báo cho nhau biết, cứu giúp lẫn nhau, đừng có quên.



Hai người từ biệt nhau, trăm người con trai toả đi các nơi, trăm người đó trở thành tổ tiên của người Bách Việt. Người con trưởng ở lại đất Phong Châu, được tôn làm vua nước Văn Lang lấy hiệu là Hùng Vương. Vua Hùng chia nước ra làm mười năm bộ, đặt tướng văn, võ gọi là lạc hầu, lạc tướng. Con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương. Ngôi vua đời đời gọi chung một danh hiệu là Hùng Vương.
Lạc Long Quân là người mở mang cõi Lĩnh Nam, đem lại sự yên ổn cho dân. Vua Hùng là người dựng nước, truyền nối được mười tám đời. Do sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ, nên dân tộc Việt Nam vẫn kể mình là dòng giống Tiên Rồng.
Từ tích Cha Lạc Long Quân lấy Mẹ Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng nên dân tộc ta mới có từ ĐỒNG BÀO.
Trống Đồng Đông Sơn

Bối Cảnh Lịch sử
Trong âm mưu thôn tính và đồng hoá dân tộc Việt, các cuộc xâm lăng từ phương Bắc không ngừng tiếp diễn. Điển hình nhất là trong thời kỳ Bắc Thuộc lần thứ hai, sau khi tiêu diệt được cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Mã Viện tiến hành chính sách đồng hoá, thiêu huỷ tất cả những gì liên quan đến văn hoá nước ta. Chẳng những thế, Mã Viện còn trồng một trụ đồng trên có hàng chữ"Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" có nghĩa là "Cột đồng gãy, Giao Chỉ bị tiêu diệt". Dân Việt vì sợ cột gãy, nên khi đi ngang trụ đồng đều lấy đá thảy vào chân cột, lâu ngày thành cái gò cao.

Người Trung Hoa lợi dụng huyền sử, không xác định chính xác về tổ tiên, với chính sách đồng hoá, đến thời Mã Viện đốt sách xóa bỏ chữ viết của người Việt Cổ, xoá bỏ các ghi chép về thời Hùng Vương..v...v.. (cho đến nay tạo ra 1 vùng huyền sử cho Chính Sử Việt Nam : Hùng Vương huyền sử - Lộc Tục+Sùng Lãm+18 đời vua HÙNG(20 vua) mà trị vì hơn 2600 năm Trước Công Nguyên ? (*)
Ép buộc khuyến khích học Hán Tự. Các quan Tàu đô hộ tìm đủ mọi cách để xoá đi cội nguồn dân tộc Việt.
Với chính sách đồng hoá và xâm lấn, các triều đại Trung Hoa liên tục tìm cách đồng hoá người Việt thành người Tàu, bọn chúng đã đốt sách, hủy diệt văn hoá của người Việt và còn thâm độc hơn tự nhận là "con cháu Viêm-Hoàng"(Đế Viêm tức Thần Nông) để có ý chỉ rằng dân tộc Việt cũng là người Trung Quốc.
Vốn Thần Nông Thị (dòng họ Thần Nông) là dòng vua đầu tiên của các vị vua người Việt. Người Việt gọi là "Đế Viêm"(tiếng Việt), Người Tàu gọi là "Viêm Đế" (tiếng Hán)

Đế Viêm Thần Nông người phát minh ra việc trồng lúa nước. Vào thời điểm này người Trung Hoa sống ở phía bắc khí hậu ôn đới chỉ biết trồng lúa mạch lấy đâu ra kỹ năng trồng lúa nước của miền nhiệt đới mà nhận ông vua này của họ? Đến đời nhà Hạ, nhà Thương của người Trung Hoa lãnh thổ cũng chỉ ở phía Bắc sông Trường Giang lấy đâu ra vùng trồng lúa nước sông Trường Giang?
Các vua kế tiếp Đế Viêm Thần Nông gồm có : Thứ 2. Đế Thư. 3. Đế Lâm. 4. Đế Minh (Vua này sinh ra Lộc Tục là con thứ không phải con trưởng. Lộc Tục (Kinh Dương Vương) sinh ra Sùng Lãm chính là Lạc Long-Quân) 5. Đế Nghi 6. Đế Lai 7. Đế Lý 8. Đế Du Vọng



Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Vua Đế Minh là cháu ba đời của Vua Thần Nông. Khi đi tuần phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc Hồ Nam Trung Hoa) gặp một nàng Tiên, lấy nhau sinh ra Lộc Tục. Sau đó phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam ( từ núi Ngũ Lĩnh trở vào Nam), Xưng hiệu là Kinh Dương Vương, đặt tên nước là Xích Quỷ. Năm Nhâm Tuất 2897 trước Công Nguyên, Kinh Dương Vương cưới con gái của Thần Quân Động Đình Hồ là Long Nữ sinh ra Sùng Lãm. Sùng Lãm nối ngôi vua xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân cưới con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ.
Theo truyền thuyết Việt Nam, Âu Cơ là Tổ Mẫu của người Việt. Tương truyền, Âu Cơ là con gái của vua Đế Lai. Trong khi đi tuần thú phương Nam, ông đã để Âu Cơ lại trên một cái động. Khi Lạc Long
Quân đi đến đây thì thấy nàng xinh đẹp nên đã đem lòng yêu mến và đem về làm vợ. Hai vợ chồng Lạc Long Quân và Âu Cơ đã sống với nhau.
Âu Cơ Sinh ra một bọc, trong bọc có 100 quả trứng. Trứng nở ra trăm đứa con. Một hôm Lạc Long Quân bảo Âu Cơ: " Ta là giống Rồng, Nàng là Giống Tiên. Thuỷ hoả tương khắc, khó mà chung hợp nhau. Nay Nàng dẫn 50 con lên núi. Còn ta đưa 50 con xuống biển", chia nhau cai quản các vùng. Khi hữu sự hãy thông báo cho nhau để giúp đỡ. Đây là tổ tiên Bách Việt. Lạc Long Quân đưa các con xuống miền biển Nam Hải, phong cho con trưởng làm vua Hùng Vương đặt tên nước là Văn Lang.
Họ Hồng Bàng triều đại đầu tiên trong sử Việt bắt đầu từ đấy.


Huỳnh Hữu Đức Biên Soạn