Thứ Hai, 30 tháng 9, 2013

Hóa Thạch




Về ngang phố cũ chiều nay
Trời buồn tuôn đổ hạt dày hạt thưa
Loanh quanh lạc bước trong mưa
Ngậm ngùi – lối cũ đường xưa đâu rồi?


Tìm đâu những phút bồi hồi
Còn đâu kỷ niệm một thời yêu nhau
Từ em trở gót chiêm bao
Ta ngồi đếm giọt tình sầu rụng rơi


Xót xa tình đã vỡ đôi
Thương vầng trăng khuyết đơn côi đêm dài
Một mình với bóng lạc loài
Tình ta gọi mãi cũng hoài công thôi


Cũng đành! Mình mất nhau rồi
Cánh bèo theo nước nổi trôi trăm dòng
Bao lần chiều đến mênh mông
Vời xa ngút ngát, nhủ lòng: quên thôi!


Đường đời bao chuyến ngược xuôi
Câu thơ lục bát chơi vơi nỗi mình
Giữa lòng nham thạch lặng thinh
Nhỏ dòng lệ nóng khóc tình thiên thu…./.

Trần Thị Dã Quỳ


Sầu Đông

Image

Đêm về gió rét từng cơn,
Chở chuyên nhung nhớ vào hồn tái tê.
Ngày từ giã mẹ lìa quê,
Trải bao cay đắng, ê chề đoài phen.

Nụ hôn ngày đó hơi quen,
Còn vươn ân ái, còn thèm dấu yêu.
Từng đêm trở giấc quạnh hiu,
Giơ tay quờ quạng, người yêu đâu rồi?

Chợt nghe thổn thức, bồi hồi,
Cớ sao nghiệt ngã đôi đời cách ngăn?
Cô đơn bủa ngập tràn lan,
Phòng con giờ bỗng thênh thang nỗi sầu.

Nào anh có phải chàng Ngưu,
Chờ cho Ô thước bắt cầu mới sang!
Nửa đời anh đã đi hoang,
Nửa đời còn lại anh mang sầu về...

Vì yêu, em nhận não nề,
Vì yêu, em nhận một bề thiệt thua!
Vào Đông con gió trở mùa,
Giá băng trời đất, đong đưa điệu buồn!

Liberal, Kansas – Đông 1987
Mặc Thái Thủy


Thơ Tranh: Chiếc Lá



Thơ: Lục Lạc
Thơ Tranh: Kim Oanh

Nhớ Vĩnh Long




"Hai mươi lăm năm chưa trở lại quê nhà
Thành xưa, phố cũ vẫn quanh ta"
* * *
Xuân, Hạ qua rồi, Thu lại Đông
Bốn mùa trăn trở nỗi hoài mong
Ngậm ngùi quê cũ, sầu ly khách
Quay quắt đêm dài, nhớ Vĩnh Long


Ngày xưa ngăn cách bởi giòng sông
Hoặc chỉ xa nhau mỗi cánh đồng
Mà những tưởng chừng xa diệu-vợi
Bây giờ biền biệt cả trời đông!

Thân viễn xứ, tình quê hơn biển rộng
Lòng bồi hồi nhớ bạn cũ, trường xưa
Tuổi học trò đơn sơ nhưng lắm mộng
Đường qua cầu, sàn gỗ lót lưa-thưa

Tà áo trắng dịu-dàng thân thương quá
Giờ tan trường phố xá bỗng reo ca
Dáng e ấp nắng chiều nghiêng nón lá
Guốc khua đường, rộn rã bước em qua

Nhớ hàng quán hai bờ sông Mỹ Thuận
Xề ổi xanh, tô bún nướng tôm càng
Chiếc đò ngang xưa đưa tình đón nghĩa
Chở người về qua cửa chợ Trường-An

Giòng Tiền Giang đục ngầu mùa nước lũ
Dâng phù sa ấp ủ lúa xanh đồng
Dề lục bình bềnh bồng trôi, tư lự
Cuộc phân ly, bến lạ lạc mấy giòng

Thương hoa quả cũng thật thà chất phác
Quày dừa xiêm, buồng chuối sứ ngọt ngào
Quả xoài xanh chẳng chanh chua đường mật
Tóc em dài thơm hoa bưởi, hương cau

Nhớ miếu Bảy Bà, cây da Cửa Hữu
Em dâng hương, tóc xỏa bóng từ bi
Ngày trẻ dại, sợ giờ linh Bà quở
Gió lay cành, lấm lét ngỡ Bà đi!

Thương bà cụ còng lưng ngồi cắt giác
Dưới tàn đa tan tác lá chiều thu
Qua công viên, dáng gầy em ngơ ngác
Gánh hàng rong trĩu nặng bóng mây mù

Những ngày mưa đạp xe vòng quanh phố
Bên kia sông cây nhạt, bóng ai mờ
Bao nhiêu tuổi xuân thì bên cửa sổ
Nhìn mưa bay, lòng lạc nẻo đường mơ

Cồn An Thành nay đất bồi hay lở?
Phà Cổ Chiên còn đợi khách sang sông?
Ngày ba mươi chợ Tết có còn đông?
Cô hàng hoa thập thò nghe pháo nổ?

Miễu Quốc Công vía thần ai cúng giỗ?
Trời còn xanh trên ruộng lúa Cầu Vồng?
Góc vườn xưa cây sữa có đơm bông?
Đường Võ Tánh còn ai hồng đôi má?

Văn Thánh miếu hai hàng sao xanh lá?
Đền Cụ Phan còn đó khẩu thần công?
Những ngày rằm hương khói có còn xông?
Chuông Pháp Hải vọng hồi tâm tỉnh thức?

Gió có thổi qua cầu Lầu, Thiềng Đức?
Sông Long Hồ còn đó ánh trăng xưa?
Đường Gia Long đọng nước những chiều mưa,
Ai đứng đợi, ai về sau buổi học?

Chợ bờ sông rộn ràng con đò dọc
Đò đưa em qua chợ Lách, Tam Bình
Về Vũng Liêm, xuôi giòng sông Mang Thít
Đến Trà Ôn nghe vọng cổ u tình

Em ghé lại sân trường Tống Phước Hiệp
Nhặt cho tôi hoa phượng vỹ đỏ lòng
Về Ngã Tư, qua cầu Kinh, cầu Lộ
Hỏi bạn bè ngày cũ nhớ tôi không

Đêm nay trời đổ cơn mưa lớn
Nửa tạt quê xưa, nửa chạnh lòng
Canh tàn đối bóng mình tôi uống
Thưong nhớ đầy vơi, chén rượu nồng!

Lê Kim Thành
Pittsburg 4/2004



Thơ Tranh: Gửi Mùa Thu Xưa -Nam Chi



Thơ: Nam Chi
Thơ Tranh: Kim Oanh

Quay Về Kỷ Niệm




Lại lần nữa quay về phố núi
Bới đào tìm lắm buổi năm xưa
Suốt những ngày tháng Bảy chiều mưa
Trăng xưa vắng soi cầu Ô Thước

Mái tóc dài em còn óng mượt
Lả lơi đùa vượt khúc thời gian
Đôi má thắm dung nhan kiều diễm
Nụ cười duyên xâm chiếm hồn ai

Đêm nay như Đông dài chất ngất
Cuộc đời trôi vất vả đi tìm
Đôi môi mọng chìm vào hư ảo
Áo não lòng kẻ ở người đi

Gởi theo gió những gì u ẩn
Lỡ một lần vuột mất tầm tay
Người em gái cao nguyên đất đỏ
Mối tơ lòng vò võ canh thâu !

Pleiku 17-7-2011
Lekimhiep

Mối Tình Học Trò


( Lê Kim Nhi - Vĩnh Long 1963)

LTG: Bài viết này không nhầm mục đích luyến tiếc cho những kỷ niệm đẹp của tuổi học trò đã qua, mà tiếc rẻ cho thế hệ con cháu chúng ta đang sống trong một thời đại mà tình cảm của con người đang bị bóp chết dần bởi những quan niệm hướng về vật chất, hưởng thụ và thực dụng. Họ khó tìm được những tình cảm cao đẹp thật sự của một con người trong xã hội như: tình thầy trò, tình bằng hữu, và ngay cả trong tình cảm trai gái.

     Thế hệ của  chúng ta thường có câu nói: trong tình yêu trai gái không có mối tình nào đẹp bằng mối tình đầu, nhất là mối tình đầu thuở học trò. Nhưng lại có một câu nói khác là không có mối tình nào mong manh bằng mối tình đầu và nhất là mối tình đầu học trò. 
     Chính vì vậy mà thời đại cha anh và chúng ta đã có không biết bao nhiêu bài thơ, bài ca, bài văn ca tụng cũng như than khóc và tiếc nuối cho những mối tình đầu đẹp đó.
     Nhiều cuộc tình đã trở thành huyền thoại của bao nhiêu thế hệ của tuổi học trò. Xét về khía cạnh này, tôi là một người rất diễm phúc, vì người bạn đời đã cùng tôi vượt một quãng đường dài 35 năm, qua bao sóng gió thăng trầm, chính là mối tình đầu học trò của tôi.
     Tôi thường nói đùa với bạn bè:
        -  Nhà tôi là mối tình đầu và có lẽ cũng là người vợ duy nhất và cuối cùng của đời tôi.
    Một anh bạn tinh ý đã bắt bẽ:      
       -  Như vậy chị nhà không phải là người tình duy nhất của anh?
    Thật là: “Có những niềm riêng mà không muốn nói.”Bài ca của nhac sĩ Tín Hương. Anh bạn tôi nói đúng, tôi cũng giống bao nhiêu người đàn ông khác, trong cuộc sống trôi nổi làm sao bắt con tim ngủ yên hoài được, đôi khi nó cũng phải thức giấc na đêm.
      Nhất là tôi một cuộc đời quá trôi nổi và thăng trầm.
     Vì phiêu lưu qua nhiều cuộc tình trong những điều kiện và hoàn cảnh khác nhau nên tôi đã trở thành nhân chứng của những cái đẹp, cái quý của mối tình đầu học trò và muốn chia sẻ với các bạn trong bài viết này.
     Tôi biết Kim Nh.( tên của Nhà tôi ) năm tôi học Đệ Ngũ, và chúng tôi thật sự quen nhau  khi học chung Đệ Tam. Chắc các bạn nghĩ tôi đang dùng lối nói mắc mứu (tricky)? Không! thật ra chuyện tình của chúng tôi bắt đầu một cách cắc cớ. Vì chuyển qua chương trình Việt tôi bị sụt một lớp. Nên khi tôi học Đệ Ngũ thì nàng đã học Đệ Tứ, chuẩn bị thi Trung Học Đệ Nhất Cấp. Lớp nhỏ nằm bên ngoài, lớp lớn nằm bên trong, nên mi ngày vài lần nàng phải đi ngang lớp tôi.
     Vì vậy khi bắt đầu sự quen biết của chúng tôi chỉ có một chiều, nàng chẳng hề biết có tôi trên cõi đời. Chỉ một vài tháng sau tôi đã quyết định thi nhảy lớp (thời đó gọi là thi nhảy).
     Có sự trùng hơp may mắn, Ba tôi mới nhận một anh sinh viên Trường Sư Phạm làm con nuôi. Anh ấy muốn mở lớp dạy luyện thi Trung Học, nên nhà tôi trở thành lớp học luyện thi cho tôi và năm người bạn đồng chí nhưng khác hướng (khác hướng là vì họ quan tâm đến vấn đề quân dịch, còn tôi thì quan tâm đến bạn gái ).
     Bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp chính là chiếc phà Mỹ Thuận đã liên kết mối tình tám năm của chúng tôi. Cuộc tình của chúng tôi đã gắn liền với đất Vĩnh Long.

(Lê Kim Nhi & Đỗ Đình Tiến - V
ĩnh Long)

     Chúng tôi có biết bao kỷ niệm đẹp tại vùng đất hiền hòa và êm đềm đó. Mãi đến bây giờ chúng tôi vẫn còn mơ có một căn nhà nhỏ, trước lộ sau sông, bao quanh là vườn cây ăn trái tại đất Vĩnh Long thân yêu (giấc mơ của một đôi tình nhân học trò đất Vĩnh, vẫn còn là giấc mơ của đôi vợ chồng đã bạc đầu).
     Thánh nhân nói cuộc đời là Dịch, cứ thay đổi rồi đổi thay.
     Xong trung học tôi giã từ Trường Tống Phước Hiệp, giã từ tỉnh Vĩnh Long để đi vào đại học, bước vào một giai đoạn mới của cuộc đời.
 
     Tôi đã được học bổng tại một trường đẹp nhất nước lúc bấy giờ, đó là Đại Học Đà Lạt. Đối với một anh học trò tỉnh đồng bằng như tôi thì thời gian đó là một cuộc du hành vào thế giới sinh viên thật hấp dẫn và đầy thơ mộng, đang thời mê hoặc với dòng nhạc Trịnh Công Sơn,và nghiện ngập với ging ca Khánh Ly. Có một điều khá đặc biệt đối với tôi đó là bạn bè.
     Đi học Đà Lạt tương đối nhỏ nên sinh viên biết nhau cả và hầu như họ đến từ khắp miền của đất nước.
     Có những anh bạn người miền Bắc mà không hề biết miền Bắc, và cũng không biết cả miền Nam, nói toàn tiếng Bắc cổ.
     Có những chị bn người Huế Nội Thành giọng nói thật dễ thương và ngọt ngào như chim hót, nhưng tôi nghe chẳng hiểu được mô tê gì cả, cứ như nghe người ngoi quốc nói vậy.
     Trong hoàn cảnh đó kéo dài bốn năm, dù tôi cho con tim uống thuốc ngủ nhưng nó cũng thỉnh thoảng git mình thức giấc.
     Lúc ấy tôi thầm nghĩ nếu mối tình đầu của tôi không bắt đầu ở Trung học thì có lẽ nó bắt đầu ở đây rồi! Nhưng những liên hệ tình cảm trong thời sinh viên đều đã dừng lại, đôi khi sau một buổi trại, hay sau một buổi trình diễn văn nghệ hoặc có kéo dài lắm là đến lúc chia tay nghỉ hè.
     Lúc bấy gi tôi không nghĩ gì cả và cho đó là chuyện bình thường nhưng sau này tôi mới hiểu ra.


     Bước vào đại học là bắt đầu tập làm người lớn, bắt đầu tập làm người trí thức, sự ngây thơ, thật thà và vô tư của tuổi học trò lần lần bị thay thế bởi những đức tính khác thực tế và cân nhắc hơn.
     Đó là lý do mà tôi không thể tìm được một cuộc tình nào đẹp hơn cuộc tình mà tôi đang có từ thuở học trò.Giòng đời cứ tiếp tục trôi…Sau bốn năm, tôi đã tốt nghiệp và thực sự bước chân vào đời. Có một câu nói tôi luôn nhớ  đến nhưng lại không nhớ ai đã nói “Đời là một đấu trường”. Đúng thế phải không các bạn?! Đời thực tế khác với cuộc sống dưới mái nhà trường.
     Chính vì thế chúng ta mới có trang Tống Phước Hiệp, Nguyễn Trường Tộ chúng ta tìm về những tình cảm, những kỷ niệm thuở học trò để xoa dịu những vết thương nhức nhối mà cuộc đời đã ban tặng cho chúng ta.
      Tôi là một trong những người tương đối thành công so với  những người bạn cùng khóa, không vì tài năng mà vì may mắn.Trong môi trường mới tôi có cơ hội tiếp xúc với nhiều giới và đa dạng hơn nhưng những liên hệ tình cảm trong thời gian này không giống thuở đi học, nó đến thật nhanh và ra đi cũng thật nhanh.
        Nó đến nhanh không phải vì tiếng sét ái tình mà vì xúc tác bởi tiền bạc, phương tiện và chức vụ.
       Nó ra đi nhanh vì sự quan hệ đặt trên căn bản tình cảm thì ít mà trên mục đích riêng tư thì nhiều. Vì điều kiện và nhu cầu của giao tế tôi đã có dịp bước vào thế giới ăn chơi  tiếp xúc với giới ăn chơi chuyên nghiệp.
        Tôi đã đến một vài địa điểm được xem là sang trọng vào thời đó, nhưng thành thật mà nói tôi không cảm xúc, tôi cảm thấy tội  hơn là cảm hứng.
       Có một lần vì nể lòng tôi đã đến một địa điểm khá sang trọng trên đường Công Lý, và được tiếp bởi một cô rất trẻ. Có lẽ vì còn trẻ nên còn thật thà, cô đã hỏi tôi:
     - Bộ anh liệt d…hả?
        Tôi tr lời đùa: 
    - Anh đồng tình mà không luyến ái, nhưng em không sợ mất tiền.
     Cô nghe không mất tiền thì có vẻ yên tâm, nhưng không hiểu tôi nói gì. Một vài người bạn cũng đã bảo thái độ của tôi trong vấn đề này là không bình thường.
      Tôi buồn cười vì chẳng lẽ không chơi bời là bất bình thường. Thật ra tôi có hai lý do thật bình thường.

      Thứ nhất tôi không có nhu cầu ăn bánh trả tiền, thứ hai là tôi muốn bảo vệ gia đình của tôi, tôi trân trọng Nhà tôi như thế nào thì tôi trân trọng với cuộc đời của con cái cũng như vậy.
      Năm 1975 tai họa xảy đến. Cũng như hàng triệu gia đình khác tại Miền NamViệt Nam, gia đình tôi cũng bị vùi dập trong cuộc đổi đời.
       Bây giờ tình cảm vợ chồng không còn bị quấy rối bởi những chuyện tình vớ vẩn nữa, mà đang bị thách đố bởi một cuộc sống bão táp, những biến cố và tai hoạ sự đảo điên của xã hội và tình người.
       Gia đình tôi là nạn nhân đầu tiên của cuộc chiến 1975. Ngày tôi bị bắt, cũng là ngày Nhà tôi chuẩn bị sanh đứa con thứ  nhì. Khi tôi về được Sàigòn, thì tài sản và sự nghiệp của tôi vn vẹn là một vợ hai con.
      Thế là chúng tôi bắt đầu từ vốn liếng đó để dựng lại cuộc sống trong cơn sóng hỗn loạn.

       Sau sự kiện 30-1975, trên mười lăm năm ... tôi cũng giống như bao nhiêu người đàn ông Miền Nam khác không thể đứng yên nhìn một Tổ Quốc đang tan tác. Đến khi bất lực và tuyệt vọng thì lại lao vào con đường vượt biên để cứu thoát gia đình và tương lai con cái. Chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó mà tôi đã nhiều lần vào tù ra trại. Có một lần nhà tôi lặn lội một ngày một đêm đến thăm nuôi tôi ở trại tù Châu Bình (Bến Tre). Sự mệt mỏi và những giọt nước mắt vẫn không che giấu được niềm vui và hạnh phúc trong ánh mắt của Nhà tôi khi ngồi cạnh tôi. Tôi thầm cám ơn Thượng Đế đã ban cho loài người có một tình yêu, và tôi cũng cám ơn Nhà tôi giữ lòng chung thủy để tình yêu đã trở nên niềm hạnh phúc của chúng tôi. 

      Ngày nay vợ chồng chúng tôi cũng không khác gì các bạn, hằng ngày cũng có những xung đột và cãi vã. Làm sao tránh khỏi vì chúng ta đã vượt qua quá nhiều biến cố, đau khổ và những sự thay đổi thật nhanh chóng nên đã tạo cho mổi người một cá tánh, quan niệm rất khác nhau.
     Nhưng đối với chúng tôi sau mi lần chiến tranh như thế, tôi luôn lại là người tìm cách hòa đàm và luôn chiụ thiệt…Các bạn có biết tại sao không? Vì mối tình đầu thuở học trò vẫn còn sống trong lòng tôi. 
 
(Lê Kim Nhi & Đỗ Đình Tiến Canada)
Đỗ Đình Tiến
Đầu Hè 2004


Quặn Đau

   

Mưa nơi đây nhớ mưa phố núi
Mưa nơi này xót cuộc tình say...
Tháng năm mòn mỏi lưu đày
Quê người lưu lạc thân này quặn đau

Suối Dâu
22/8/2013




Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2013

Thơ Tranh: Cảm Tác - Dương Hồng Thủy


Thơ: Dương Hồng Thủy
Thơ Tranh: Kim Oanh

Cửu Long Giang

 

Bây giờ em ở nơi đâu?
Hoa vàng muôn thuở, một màu nhớ thương
Chiến tranh tràn ngập quê hương
Anh vào quân đội bước đường gặp em
Sài Gòn hoa lệ êm đềm
Dáng em áo trắng, tóc mềm xỏa vai
Chinh nhân mờ bóng tương lai
Tiếng yêu, chưa dám tỏ bày cùng em
Quê anh ở tận miền tây
Mẹ cha vất vả ngày đêm ruộng đồng
Cu Long tên một dòng sông
Nuôi anh khôn lớn vẫy vùng dọc ngang
Từ khi lịch sử sang trang
Súng gươm xếp lại, gian nan kiếp người
Làm thân tù tội. Em ơi!
Bao nhiêu ước vọng cuốn trôi theo dòng
Bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông
Sáu năm đói khát, cõi lòng nát tan
Ra đi hồn vẫn ngỡ ngàng
Quê hương còn đó, nhưng sang trang rồi
Sài Gòn Xa tít mù khơi....
Sài Gòn thương nhớ chưa vơi ni lòng
Ngồi ôn kỷ niệm xa gần
Bao giờ gặp lại một lần hỡi em?
Ngày xưa kỷ niệm êm đềm
Bước chân ghi dấu chốn quen nơi nầy
Ân tình cảm xúc còn đây
Làm sao quên được những ngày bên nhau
Thời gian lặng lẽ trôi mau
Năm năm tháng tháng bạc màu tóc sương
Trở về ngơ ngẩn bên đường
Tìm đâu dáng cũ người thương xa vời
Hồn nghe lạc lõng chơi vơi
Em tôi trôi dạt phương trời nào đây?
Thu buồn ngắm lá  vàng bay
Nhìn khu phố cũ đổi thay mất rồi
Anh giờ ở chốn xa xôi
Nghìn trùng xa cách, biển trời bao la
Đêm đêm vẫn nhớ quê nhà
Nhớ Sài Gòn đã đậm đà nghĩa ân
Xin cho gặp lại cố nhân
Dù trong đoạn cuối cõi trần ly hương
Một lần nhìn lại người thương
Nếp nhăn khóe mắt, tóc vương hai màu
Một lần để thỏa niềm đau
Ông Tơ bà Nguyệt lộn màu chỉ duyên....

Vĩnh Trinh

Xin Cảm Ơn Đóa Hồng Trắng




Hoa hồng trắng tôi không cài lên áo
Cũng nghe gai cắm máu lòng thật sâu
Chưa cầm tay mà đau buốt lúc nào
Màu tang biếc lạnh lùng trong cánh nhỏ

Em trao tôi nghiễm nhiên hay nhắc nhở
Huyệt mộ sầu bới lấp để thêm đau
Hương đóa hoa hay ký ức bưng trào
Không nước mắt mà rát tròng đôi mắt

Tôi dư biết đời cũng rồi sẽ tắt
Phút cuối cùng sao quá vội đến đây
Để mẹ tôi thành bụi cát xa bay
Tôi còn lại giữa thẫn thờ hối tiếc

Mùa Vu lan hay là mùa vĩnh biệt
Vì u sầu không giết được nghĩ suy
Nên niềm đau như hãn mã phanh thây
Nghe từng thớ tế bào mình rên xiết

Xin cảm ơn đóa hoa màu tống biệt
Xin không cầm để thấy lòng ngập gai
Khi máu tôi thành cát chảy tim này
Tôi nhớ mẹ! Những ngày xưa. Ôi nhớ

Hoài Tử


San Sẻ - Kim Oanh



Em không tiếc một thời rất trẻ
Chẻ quả tim san sẻ cho người
Em không tiếc mắt cười môi thắm
Đậm hương tình đầm ấm vòng tay

Em không tiếc thương yêu ngây dại
Dù con đường hạnh phúc rẽ hai
Phần thiệt sai em không định hướng
Vướng khổ sầu chẳng tiếc mải mai

Kim Oanh
6/8/2013


Chia Sẻ


    
      (Từ San Sẻ của Kim Oanh)

Anh đâu tiếc khoản thời trai trẻ
Hơn một lần chia sẻ với người
Bầu nhiệt huyết dâng cho đất nước
Để cho đời hạnh phúc tròn tay

Anh đâu tiếc tuổi xuân ngày đó
Yêu một người tim đã chẻ hai
Dù thiệt thua, lòng không tính toán
Ước mong tình đẹp ở ngày mai.

Song Quang


Đừng Hoen Mắt Lệ...










        (Cảm tác từ bài San Sẻ của Kim Oanh)

Tiếc chi em cái thời son trẻ.
Đem quả tim san sẻ cho người.
Vòng tay rồi cũng buông lơi.
Hương lòng phai nhạt, bờ môi héo sầu.

Tiếc chi em tình đầu dang dở.
Buồn chi em đã lỡ đời nhau.
Đừng hoen mắt lệ thương đau.
Xem như nước chảy qua cầu, nhé em!

Dương Thượng Trúc.
11/14/2013    

Thứ Bảy, 28 tháng 9, 2013

Áo Trắng Ngày Xưa - Sáng tác Nguyễn Đức Tri Tâm - Grace Văn ca


Nhạc và Lời: Nguyễn Đức Tri Tâm - Cựu Nam Sinh Trường Trung Học PleiKu
Tiếng Hát: Grace Văn - Cựu Nữ Sinh Trường Trung Học Pleime, Pleiku
Hình Ảnh: Thu ĐàoCựu Nữ Sinh Trường Trung Học Pleime, Pleiku
Thực Hiện: Kim OanhCựu Nữ Sinh Trường Trung Học Tống Phước Hiệp , Vĩnh Long



Đơn Phương Tình Cũ

 

Buổi họp mặt đêm về thao thức nhớ
Bao vấn vương lưu luyến tuổi học trò
Thuở yêu người vớ vẩn mấy vần thơ
Cái liếc mắt cũng vật vờ đêm không ngủ


Sợi tóc rối lén lượm về ấp ủ
Hơi hám người quen quá... hóa thành thương
Đêm mộng du ân ái tiếc lạ thường
Ngày đến lớp bài vở nào có nhớ

Sáu mươi mốt năm nặng gánh đời vấp ngã
Để một ngày bỡ ngỡ đón tìm nhau
Em kiêu sa vẫn đẹp tựa ngày nào
Ta xơ xác thân bướm già tơi tả... tơi tả


Phủ Hiền

Trải Lòng Tiết Vu Lan

 

      Theo lệ có lẽ lâu lắm rồi, tháng Bảy là tháng mưa Ngâu cũng là xá tội vong nhân theo mùa Vu Lan báo hiếu thân nhân quá vãng, trong tháng xá tội họ về với những gì họ tưởng đến, về với gia đình cùng con cháu về với bạn bè thân quen, được hưởng cúng phẩm của gia đình bằng vật chất và cũng hưởng luôn những thời kinh cầu siêu gọi vong với mong ước của người đang sống, thân nhân mình nhờ đó mà siêu sanh không còn mãi tưởng nhớ trầm luân trong hận thù oán trái, bứt dây trói buộc nhẹ nhàng thong dong tự tại.

    Thế nhưng những anh linh của tử sĩ, những chiến sĩ trận vong trên bin cũng như trên đất liền, từ trăm ngàn năm trước cho đến ngày nay. Chỉ đến khi Vu Lan mới được thí thực, thí pháp, vậy còn ngày thường trong mỗi ngày của chúng ta đang sinh sống thì sao lại quên họ nhỉ.
    Vì thương tưởng họ nên mỗi buổi cơm gia đình, tôi kính cẩn chấp tay mời họ dùng dù bữa ăn đạm bạc, trước khi gia đình tôi cùng cầm đ
ũa.
    Nhân mùa báo hiếu năm nay, tôi ghi lại cảm xúc của họ qua hình ảnh trăng tháng Bảy trong mây mù, như đôi mắt người xưa nhìn mình qua khóe lệ, như trách móc, như yêu thương vẫn mãi không bao giờ nguôi…..
 
Uổng tử cùng hồn oan
Kết thành mưa mù mịt
Không nhà chẳng thân thích
Phiêu bạt bất cần nơi
Mời chư vị ghé chơi
Tôi tặng kinh siêu độ
A Di Đa Bà Đa
Cầu nhất niệm nhất ngộ
Các vị mười phương chơi
Sụt sùi uổng tử
Trương Văn Phú
    *A Di Đa Bà Dạ - Câu khởi nguồn cho bài tụng chú vãng sanh, vãng sanh cho người khuất, cũng như vãng sanh cho người đang sống với tâm thiện lành-vãng sanh hiện tiền-
   Thiện- Đạo  nhân mùa Vu Lan báo hiếu



Từ Ngọt Ngào Hai Tiếng Chị Ơi





Anh cứ ngỡ rằng
em là cô bé ngày xưa
Hai tiếng …chị ơi
nghe thân thương đứt ruột

Khóc đi em
cho lệ trào khô nước mắt
Để quanh đây
không còn tiếng nấc bao giờ !

Anh gởi về em
chan chứa lời thơ
Khi gió ngẩn ngơ
mây buồn ngưng đọng

Hãy cười đi em
niềm vui là lẽ sống
Đêm cũng vô tình
làn sương mỏng vừa tan.

Dương Hồng Thủy
( 02/08/2013 )

Ngọt Ngào Hai Tiếng Chị Ơi





“ Chị ơi
chắc gì
thơ vô thanh
để đừng nghe tiếng nấc
Có cái gì
sóng sánh
trong đôi mắt
bao giờ “.

Hồ Việt Kim Chi




Bạn Có Làm Ngơ



Bạn có vô tình nghe tiếng nấc làm ngơ
Con tim ai đang réo rắc đợi từng giờ
Đang cố nén càng vươn cao đợt sóng
Rót đau thương ngọt lịm rớt vào thơ


Làn thu ba ngắm biển chiều sóng sánh
Trong tận cùng muốn gởi gió theo mây
Sợ âm vang trăng nép mình đứng lặng
Nói điều gì trong mắt biếc dâng đầy?

Vùi tiếng nấc vào mênh mông thăm thẳm
Giữa biển đời im bặt tiếng sóng vang
Đêm lắng sâu qua tiếng gió bạt ngàn
Hòa vũ trụ với ta đồng nhất thể


Kim Quang
 

Chiếc Nhạn Trong Đêm




Nhạn tìm đến trời xa
Thân nương nhờ bến lạ
Vẫn luyến mảnh vườn xưa
Cánh mỏi nhớ quê nhà


Trăng nay chừng lạ lẫm
Cố hương ngoài vạn dậm
Nhạn thấy buồn da diết
Vang vọng tiếng than thầm


Giữa đêm trường im vắng
Cô đơn với ánh trăng
Mắt dõi về nơi cũ
Thăm thẳm buồn giăng giăng

Một bóng trong đêm lạnh
Mơ tưởng lại ngày xanh
Bao chuyện tình áo trắng
Những mộng ước mong manh


Lòng chơ vơ mấy nẻo
Mênh mang một chữ sầu
Trăng già thêm hiu quạnh
Hồn lặng lẽ về đâu...



Quên Đi

Lệ Đắng Bờ Môi


Bàn tay nhỏ giữ người không nổi
Để chiều hoang rong ruổi ra đi
Là từ khuất dấu chim di
Thương ai cả khoảng xuân thì khắc sâu

Rồi mấy độ thu sầu lá đổ
Bặt tin nhau tình ngỡ phôi pha
Thời gian có thể xoá nhòa
Cũng như thu đến rồi xa theo mùa

Chiều đưa lối chân qua phố cũ
Quán cóc xưa lá rũ bên đường
Là nơi hò hẹn thân thương
Khơi bao kỷ niệm bềnh bồng trong tôi

Nhìn cảnh cũ nhớ người xa vắng
Mắt nào cay lệ đắng đời nhau
Trải qua bao cuộc bể dâu
Thăng trầm vẫn mối tình đầu khó quên


Vĩnh Trinh

***
Tình Vụn Dại

 (Cảm xúc từ Lê Đắng Bờ Môi của Vĩnh Trinh)

Mối tình đầu không tên
Sao hoài ghi khắc dấu
Cuộc tình in sâu đậm
Nước mắt nhoà phai mau

Trái tim yêu loang máu
Nhuộm sắc màu tê tái
Người đi không ngoãnh lại
Hết thời ... buổi chiều nay

Mối tình đầu vụn dại
Không ước lượng phải sai
Hụt hẫng vuột tầm tay
Chôn kín ...chốn tuyền đài

Kim Oanh

Thứ Năm, 26 tháng 9, 2013

Quá Trình Hoạt Động Của Trường Trung Học Tư Thục Nguyễn Trường Tộ Vĩnh long (1952-1975) Đặng

     Đủ hiểu biết và thẩm quyền để nói về quá trình hoạt động của Trường Trung Học Tư Thục Nguyễn Trường Tộ Vĩnh long (1952-1975), có lẽ chỉ có 3 người:

- Cha Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang (1909-1990), vị sáng lập, Hiệu trưởng tiên khởi từ 1952.
- Thầy Trần văn Phong (1920-2011), Giám học, thừa lệnh Hiệu trưởng trực tiếp điều hành từ niên khóa đầu tiên.
- và Cô Đặng thị Nhan (1925-2004), Tổng Giám thị, đồng thời quản lý điều hành khi Thầy Trần Phong vắng mặt.

     Rất tiếc rằng, thầy Trần Văn Phong đã là người cuối cùng ra đi!
alt 

     Khi Cha Quang nhậm chức Giám mục Cần Thơ giữa năm 1965, chức danh Hiệu trưởng Trường THTT Nguyễn TrườngTộ (là một nhà trường Công Giáo) đương nhiên chuyn giao cho Linh mục Tổng Đại diện Giáo phận Vĩnh long kế nhiệm. Tuần tự là các vị:

- Cha Benoit Trương Thành Thắng (1912-1987).
- Cha Phaolô Trịnh Công Trọng (1922-2006).

- Cha Phêrô Nguyễn Văn Tự (1928-2001).
- Cha Antôn Ngô văn Thuật ( 1930 - 1997).

      Các vị này (nguyên là Thầy học của tôi trong Tiểu Chủng viện VL), nay cũng không còn n
a.

     Tôi chỉ nhớ loáng thoáng rằng năm 1954, khi được Mẹ mang về Vĩnh Long để vào học lớp Năm (lớp 1 ngày nay) ở Trường Bà (trường Tiểu học của các Sơ dòng Thánh Phaolo) cuối đường Trưng Nữ Vương.  Mẹ tôi, Cô Bảy Nhan đã đi dạy ở Cầu Cái Cá hơn một năm trước đó rồi.
  
     Cơ sở đầu tiên của trường THTT Nguyễn Trường Tộ ở ngay dưới chân cầu Cái Cá, đường Nguyễn Trường Tộ, gồm một dãy lớp học hướng ra bờ Rạch Cái Cá, dãy nhà trệt này nghe nói được thuê của gia đình Ông Năm Gioan (?), là khối dinh thự cổ kính kề bên.

      Vài năm sau, Trường THTT Nguyễn Trường Tộ được nhận cơ sở chính thức là dãy nhà lợp ngói bên hông cánh phải Nhà thờ Chính toà lúc đó (nhìn ra sông Cổ Chiên, vị trí một phần quảng trường Vĩnh Long ngày nay), giáp lưng với Trường Bà. Tuy vậy, cơ sở cầu Cái Cá vẫn tiếp tục duy trì thêm vài niên khoá, dành cho cấp Đệ Thất.

      Khoảng năm 1960, Trường được mở rộng thêm một dãy phía sau Nhà thờ. Lm.Hiệu trưởng, cũng là Cha Chánh sở Giáo xứ cho xử dụng sân bao quanh Nhà thờ làm sân trường, trong sân rợp bóng những gốc me cổ thụ. Nhà của Cha Chánh sở (nhà Xứ) toạ lạc bên cánh trái Nhà thờ, phía sau còn có sân vườn. Các dịp Khai giảng hay Bãi trường hàng năm được cử hành tại Tiền diện ngôi Giáo đường kiểu Romain cổ kính này.

alt

     Năm 1967, một Nhà thờ Chính toà Vĩnh Long mới được khánh thành trên địa điểm ngày nay (gần Ngã ba đi Cần Thơ), Nhà thờ cũ bỏ trống. Đức Cha Quang và Linh mục kế nhiệm là Cha B.Thắng cho phép dùng nội thất Nhà thờ cũ để làm phòng học tạm, mỗi khi thiếu ch sắp lớp. Không được lâu, chiến trận Tết Mậu Thân khiến Nhà thờ xưa bị hư hại nhiều, tháp chuông bị đổ sụp, trần mái thỉnh thoảng rơi xuống bất chợt. Cuối năm đó, công trình kiến trúc này phải bị phá dở hoàn toàn trong sự luyến tiếc của nhiều người, dành không gian trống cho sân trường đến tận sau năm 2000. Vài dãy lớp học mới được xây tiếp nơi sân phía sau Nhà xứ cũ.

      Theo tâm nguyện của Cha Nguyễn Ngọc Quang - một đời dành cho lý tưởng giáo dục thanh thiếu niên, Thầy Trần Văn Phong, với sự trợ giúp của Cô Đặng Thị Nhan trong nhiệm vụ Giám thị, và Cô Trần Thị Hạnh trong vai trò Thủ quỷ, đã một thời qui tụ được nhiều thầy cô ưu tú cùng góp công xây dựng một môi trường giáo dục trong sáng, dẫn dắt nhiều thế hệ học sinh nên người hữu ích cho gia đình và xã hội.

     Hàng ngũ giảng dạy tại trường THTT Nguyễn Trường Tộ, có cả sự góp mặt của các tu sĩ từ Đại Chủng Viện Xuân Bích VL (đang học để nhậm chức linh mục) cùng một số giáo sư đương nhiệm của trường công lập Tống Phước Hiệp. Không ít nhân vật nổi tiếng trong lảnh vực văn hoá, giáo dục đã nhiệt tâm đến trường thuyết ging cho học sinh theo lời thỉnh mời của Thầy Trần Văn Phong.  

***
alt
Cô Đặng thị Nhan (1925-2004)
     Sau chính biến 1963 ít lâu, Cô Bảy Nhan quyết định về Sài gòn tham gia việc kinh doanh của gia đình. Tuy nhiên, cuối năm 1964 Cô Nhan phải cấp tốc quay trở lại trường, theo yêu cầu của Lm.Hiệu trưởng, do Thầy Trần văn Phong buộc phải vắng mặt lâu dài vì thời cuộc.

      Được sự khuyến khích, hổ trợ của Đức Giám Mục Cần Thơ và Linh mục Hiệu trưởng, Cô Đặng Thị Nhan đã sát cánh cùng Hội đồng giáo sư, nối tiếp sự nghiệp của trường THTT Nguyễn Trường Tộ trong những thời gian vắng mặt thầy Phong.

      Đến tháng Sáu 1975, Giáo quyền chỉ định Cô Nhan tiến hành bàn giao cơ sở giáo dục này.
 
* * *  
      Tôi vào học Trường Nguyễn Trường Tộ từ năm Đệ Ngũ, niên khoá 1963-64. Cuối niên khoá 66-67 thi Tú tài 1 xong thì phải chuyn sang trường Tống Phước Hiệp để được học tiếp lớp Đệ Nhất.

      Nhớ lại những năm đó, sau giờ học, tôi thường được sư phụ là một ông Cai Nhà đèn (nhà máy điện của tỉnh VL) cho vác thang đi theo học việc. Để khuyến khích, ông giao cho tôi đãm nhiệm những mối khách hàng quen thân với tôi, trong đó có cả việc
sa cha điện cho trường Nguyễn Trường Tộ. Công việc lâu ngày khiến mọi người trong trường mặc nhiên xem tôi như một công nhân k thuật của cái trường mà tôi đang là học sinh và các Thầy Cô hay nhân viên ở đó đang là đồng nghiệp của Mẹ tôi!

      Bởi cái vị trí ngộ nghỉnh đó, tôi luôn được kêu gọi tham gia mọi sinh hoạt của học sinh cũng như nhiều công việc trong văn phòng nhà trường. Về sau, khi một số bạn cùng lứa đã được bước lên bục gi
ng của trường, tôi còn có dịp cùng vài bạn đồng hương quay lại hợp tác hướng dẫn cho các lớp đàn em.  
     Cũng như những bạn đồng song thời bước chân chập chững đến trường, sân chơi hàng ngày của chúng tôi thủa bé chính là sân Nhà thờ đó, là bến sông đó. Kéo dài sang những năm trung học và sau trung học, vừa học, vừa chơi, vừa giao tiếp, vừa làm việc. Vật đổi sao dời, khung cảnh của một thời đã xoá sạch hoàn toàn, những ngày xưa nay còn vài người bạn già lẩm cẩm, vài tấm hình hoen cũ ...

     Cũng hay, nhờ vậy mà những kỷ niệm vấn vương trong ký ức có thể vẫn giữ được nguyên dáng đẹp ngày xanh... Về một không gian không còn tồn tại.

   Hồi tưởng về Trường Trung học Tư thục Nguyễn Trường Tộ, Vĩnh Long
   đ kính nhớ Mẹ tôi, Thầy Phong, cùng những người thương mến.


Đặng AnhTuấn, Nov.2011

PS: Chỉ là hồi ức nên một vài chi tiết có thể chưa chính xác, xin miễn th